Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Tập Cõi lặng yếu kém dưới trung bình

ÔNG QUAN TO, NHÀ THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM KHÔNG GIẤU SỰ NUỐI TIẾC, BỰC BỘI, CẢ CĂM TỨC KHI MÌNH BỊ BUỘC VỀ HƯU GIỮA CHỪNG”

"Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không giấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm". (nhà thơ Đỗ Hoàng).

_________________________

CÕI LẶNG (*) CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM  - YẾU DƯỚI MỨC TRUNG BÌNH

Tập Cõi Lặng của Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2007.
  Tập có 56 bài, 9 bài thơ viết theo hình thức truyền thống (có bài lỗi vận – Tắm bến Hà Khê, Đọc thơ tứ tuyệt của Đỗ Mục, Người nằm bên Hồ Tây...), 44 bài viết theo “tân hình thức”, không vần không điệu, tức là Vô lối, 3 bài theo thể hiện đại – thơ tự do.
  Tập Cõi Lặng ra được nhiều người tìm đọc. Người ta tò mò là chính. Họ xem ông nhà thơ làm quan to tột đỉnh khi hồi hưu có như những ông quan xưa hồi hưu, có khác gì  thường dân đang quằn quại khổ đau dưới một sự toàn trị không. Hoá ra ông “quan to” hồi hưu lại hậm hực, ấm ức, tiếc rẻ, khẩu khí có khi còn quá đáng hơn cả dân thường, bài Vô lối sau:
“Bây giờ là lúc có thể chia tay với điện thoại để bàn, cạc vi- dít, nắm đấm mi – crô.
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường...
...Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ...”
(Bây giờ là lúc).
  Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không giấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng, đang lúc kiếm ra nhiều bỗng lộc. Tiếc không thay đổi được thời gian, thời gian đã đóng đinh lên thân thể; hối không làm được như gã quan Tàu trước đây đổi 83 tuổi ra 38 tuổi để tại vị nhiều thập kỷ nữa, để hốt vàng, hốt bạc. Bao nhiêu cái tiếc, bao nhiêu cái tức, cái căm.
 (Nghĩ về mất chức mà đau
Từ nay thôi hết xe tàu vi vo
 (Vè cụ Thượng mất chức – Dân gian)
  Làm quan đời nay nó hái ra toàn ngọc tạ vàng tấn, chứ không phải chỉ ba đấu gạo như tri huyện, nhà thơ Đào Tiềm xưa, và 40 đô la/tháng như Phó tổng thống, nhà thơ Rumani - Đimitrôva... nên các quan khát chức, khát quyền điên dại, oán trách đồng liêu hảm hại, oán trách tạo hoá phôi pha tuổi tác.  Sự hồi hưu ở quê là một sự đi đày, chứ không phải là từ quan về vui thú điền viên như quan xưa:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Mà:
“Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán
Đày anh về quê
Không thể chạy trốn số phận”
(Nhặt ghi)
   Và như vậy hoá ra những bài thơ viết về quê hương, cố quận như: Làng Phao Võng, Cánh đồng buổi chiều, Thành phố sớm xuân, Viết cuối năm, Về quê đón tết... đều giả hết!
   Nguyễn Khoa Điềm không giấu mình nỗi đam mê quyền lực, đam mê làm quan đến nỗi Huế và Hà Nội thời giao thông hiện đại, xe con đời mới to chỉ đỉ 7 tiếng đồng hồ là đến nhà mà để lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông. Lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông không phải lo dân chống bão lụt, chống hạn hán, lo cầm quân đánh giặc ngoài biên thuỳ, mà lỡ cả mùa thu, lỡ cả mùa đông là cấm mạng, chặn tường lửa, cấm tư tưởng dân chủ, cấm những người” nhìn ra bốn phương rực rỡ văn minh, tức tối nước nhà cam đường hủ bại” lỡ vì:
“Đã lâu anh chưa về Huế
Hẹn vào thu rồi lỡ cả mùa đông
Anh mải mê trên đường hoạn lộ
Ngảnh về quê hư ảo một vầng trăng”
(Viết cuối năm)
 Vì đam mê làm quan, đam mê quyền lực nên ông quan Nguyễn Khoa Điềm không giấu một thủ đoạn chính trị nào để đạt quyền chức:
“Nhiều khi đá đá dạy ta mềm mỏng”
(Hy vọng)
  Đến đây chúng ta nhớ tích cũ tay quan Lưu Sử Đức cũng bên Tàu. (Làm quan thì phải học Tàu).
  Ông bố muốn con làm quan to nên ra tình huống như nền giáo dục tiên tiến các nước hay ra tình huống cho sinh viên thực hành.
   Ông bố nói:
 - Nếu quan trên mắng mỏ nhổ nước bọt vào mặt con thì con phải làm sao?
Lưu Sử Đức thành thực trả lời:
 - Con im lặng và sẽ lấy khăn lau đi!
 Ông bố giật nảy mình như đỉa phải vôi:
- Không được! Không được! Hỏng hết bánh kẹo! Hỏng hết bánh kẹo! Cứ để vậy, cứ để vậy, cho nó tự khô!
   Nếu Lưu Sử Đức sồng lại thì phải đến học ông quan “mềm mỏng” Việt Nam Nguyễn Khoa Điềm thêm mấy chiêu nữa!
   Vì đam mê quyền lực, vì súng đẻ ra chính quyền (Mao Trạch Đông) nên tình thương con người trong thơ Nguyễn Khoa Điềm nhạt nhẽo, sống sượng, sáo rỗng, vô tình, không thật một chút nào. Những câu đại ngôn sau vừa kém thi pháp, vừa kém nhân đạo:
“Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống với người, chết vì người”
(Cõi lặng)
  Nhiều nhà thơ ở Huế bình và chê Cõi Lặng là tình cảm vờ vịt. Thật không sai chút nào!
  Nhiều bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm viết theo kiểu Vô lối dưới vè như: Anh đợi, Ngồi với cây long não nhà bạn, Hoa quỳ vàng...
 “Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội...
(Anh đợi)
   Cõi lặng có nhiều bài thua cả những bài ở các tập thơ trước như bài Tháng tư:
“ Tháng tư lá xà cừ xào xạc mặt đường
Dãy tường cổ nảy những chùm lá mới
Hà Nội thì thầm nghìn tuổi
Mừng Đảng qua một mùa đại hội”
(Tháng tư)
“Tháng tư dông chuyển bồn chồn
Hạt mưa vây ấm, nỗi buồn cách xa
Phía em, phía của quê nhà
Trắng là tóc mẹ, xanh là áo em!”
(Đất ngoại ô)
 Trong Cõi Lặng Nguyễn Khoa Điềm lạm dụng từ Hán Việt chưa Việt hoá như: Vô ngôn, Hoạn lộ, Hư tự...
“Bao giờ, nơi nào anh đọc được mình
Qua nỗi đau nhân loại
Vô ngôn
Hư tự”
(Những quyển sách)

 Khách quan mà nói thì những bài thơ mà Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết theo thể thơ truyền thống khá hơn một chút, có thơ hơn một chút không phải như các bài ôp lối hủ nút, lởm khởm như: Mưa thu, Bạn thơ, Người nằm bên Hồ Tây, Lên núi thăm chùa...”
“Ta ngồi như cội trúc
Gội mưa thu bốn bề
Nghĩ mình không lỗi hẹn
Với người đang xa quê

Chỉ mong em trở lại
Kịp hái chùm tóc tiên
Cắm lên bình lam ngọc
Mừng một ngày lãng quên”
(Mưa thu)
   Cõi lặng là một tập sách yếu kém dưới mức trung bình.

Hà Nội ngày 1-2 – 2012
 Đỗ Hoàng
(*) Nhà xuát bản Văn học năm 2007

Dịch VÔ  LỐI CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM

CÕI LẶNG (*)

Cõi lặng. Anh soi thấy mặt mình
Với nỗi buồn trong sạch

Cõi lặng. Không tiếng động nào khác

Người ơi, tôi yêu người tha thiết
Tôi sống vì người, chết vì người

Cõi lặng. Tôi vượt qua ghềnh thác
Đến những miền trong xanh...
 Ngày 17.1.2003
--
(*) In trong tập Cõi Lặng – NXB Văn học năm 2007

Viết liền văn xuôi:

CÕI LẶNG

Cõi lặng. Anh soi thật mình với nỗi buồn trong sạch. Cõi lặng, không một tiếng động nào khác - Tiếng đập trái tim anh. Người ơi, tôi yêu người tha thiết. Tôi sống với người, chết vì người. Cõi lặng, tôi vượt qua ghềnh thác đến những miền trong xanh.

Nhận xét:
  Đây là điển hình cho loại Vô lối đang thịnh hành. Nó tù mù, tờ mờ, chuột không ra chuột dơi không ra dơi. Nếu gọi là thơ thì là một sự xúc phạm rất lớn với thi ca!
 Khi chuyển những bài Vô lối qua cách viết kiểu văn xuôi mới biết các bài Vô lối ấy thì thấy nó kệch cỡm, bệnh hoạn biết nhường nào. Đúng là một quái thai của văn chương.
  Đấy là mới nhìn hình thức biểu hiện, chứ soi vào ý tứ, câu chữ và tu từ (hay là thi pháp) thì không biết gọi chúng là gì!
 Riêng hai câu đại ngôn “Người ơi, tôi yêu người tha thiết/ Tôi sống vì người, chết vì người” thì giống như con sói hú lên: “Cừu ơi, ta yêu Cừu tha thiết/ Ta sống vì Cừu, ta chết vì Cừu!”
Dịcn sang thơ Việt:

                   CÕI LẶNG

Cõi lặng, anh soi thật mình
Nỗi buồn trong sạch, trắng trinh giữa trời.

Cõi lặng, không tiếng nào rơi,
Tiếng tim anh đập muôn đời nào yên!

Yêu người tha thiết, thiêng liêng,
Nguyện cùng sống chết, đảo điên vì người!

Cõi lặng, ghềnh thác vượt rồi,
Đến miền trong sạch, tuyệt vời xanh trong!

Đỗ Hoàng dịch

Hà Nội ngày  29 -1 – 2012
Nguyễn Khoa Điềm

Nguyên bản

ANH ĐỢI (*)

Đến sớm một ngày
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh đợi

Đánh đổ một đời
Cuối đất cùng trời
Anh đợi

Anh tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương xanh thẳm
Thương nhớ bồi hồi
Anh đợi

Vứt hết sách vở
Hai tay bụi trần
Núi cao anh trèo
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều bạc tóc
Thương nhớ lao lung
Một thời trận mạc
Một thời cấy trồng
Anh là hạt thóc
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông

Còn chăng điều tốt
Trong cuộc đời này?
Còn bao nông mặn
Em dành hai ta?
Ngàn năm, trăm năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay
Đường xa để lại
Anh còn ngoái lại
Những lời hôm qua:
          Anh đợi!
Ngày 27 – 9 -2006

Nhà thơ Vũ Quần Phương có bài Đợi
“Anh đứng một giờ
Đất lạ thành quen”
Một sự phát giác từ hiện thực, rất hay, ai cũng biết  nhưng không ai nói được. Bài Anh đợi  của Nguyễn Khoa Điềm vô duyên hết chỗ nói. Nó vừa quê, vừa cổ lỗ sỉ, không có phát hiện gì mới, lại dưới cả vè thì đọc giả làm sao chấp nhập được?

Đỗ Hoàng Tạm dịch qua vè truyền thống người Việt:

VÈ ANH ĐỢI

Vè vẻ, vè ve
Nghe vè anh đợi.
Đến sớm một ngày
Không thì trời tối.
Vượt trước thôi đường
Cao hơn thói thường
Anh chờ, anh đợi

Anh tìm, tìm em
Từ cõi hư vô
Đến phiên chợ trời
Âm dương sáng tối
Thương nhớ bồi hồi
Anh chờ, anh đợi.

Vở sách trôi nổi
Hai tay bụi trần
Núi cao anh lần
Sông sâu anh lội
Anh đi tìm em
Mây chiều tóc rối
Thương nhớ lao lung
Chiến trường lạc lối
Một thời cấy trồng
Anh hạt thóc thối
Em là cánh đồng
Gieo bao thương nhớ
Vẫn còn mênh mông!

Còn chăng điều tốt,
Trong cuốc đời này?
Còn bao nồng mặn
Dành ta, ai hay?
Ngàn năm, ngàn năm
Anh mong, anh đợi
Một ngày xuôi tay.
Đường xa để lại
Anh ngoái lần này,
Những lời hôm qua!
Vẫn còn chói lọi!
Hà Nội ngày 29 – 1 - 2012

Ngyễn Khoa Điềm

Nguyên bản:

NGỒI VỚI CÂY LONG NÃO NHÀ BẠN

Ngồi với tôi mỏi mê
Anh quay vào bếp
Xong nồi lục đục
Mỗi âm thanh dễ nhận ra
Củi – diêm - nước mắm
Và những gì gian khó
Không âm thanh

Tôi một mình
Một nình với cây long não
Cây long não già mà lá trẻ
Như ta giữa cuộc đời này
Cây long não lặng im
Cây long não trịu trần
Năm tháng bên nhau
Nhận lấy phấn bụi bặm
Trả ta hương lành
Và một chút gì sâu xa
Không rõ nữa nữa

Bây giờ cây tiếp chuyện tôi
Gác một chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Những trang chứa biết đến của một người cầm bút...

Bên cầu Phủ Cam, tháng 5 năm 1982

Đỗ Hoàng dịch:

VỚI BẠN

Ngồi với tôi mải mê
Anh lại quay vào bếp
Tiếng song nồi, nhôm thép
Âm thanh dễ nhận ra

Nước mắm, muối, diêm, cà...
Vì những gì gian khó
Chắng có một âm thanh!

Còn tôi chỉ một mình
Một mình với long não
Long não già lá trẻ
Như ta cuộc đời này.
Cây long não lặng im
Một thân hình trần trụi
Năm tháng ta bên nhau
Nhận lấy phần bậm bụi
Trả cho ta hương lành
Chút sâu xa vời vợi
Mà không còn rõ nữa.

Bây giờ cây tiếp tôi
Gác chân lên hè phố
Chúng tôi nói về anh
Trang sách còn viết dở!...

Hà Nội ngày 29- 1 – 2012
Nhà thơ  Đỗ Hoàng

Nguyễn Khoa Điềm
Nguyên bản:

HOA QUỲ VÀNG

Thông đã mọc nghìn năm
Thành phố trăm năm
Anh đến một ngaỲ
Đà Lạt trẻ
Mà anh thì quá tuổi
Hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa

Hoa quỳ vàng
Ái ngại
Nở chờ anh

Đã sang thu?
Là hạ?
Vẫn là đông?
Không cao thấp
Sao chập chùng

Ẩn hiện
Hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng
Cánh mỏng
Hồn cao nguyên
Nương náu đến bao dung

Em thanh xuân
Anh quá đỗi
Ngại ngùng với sương gió
Đượm buồm từng tấc cỏ
Đà Lạt
Anh có gì
Để nhớ
Sao âm thầm lưu luyến
Tôi muôn xưa

Hoa quỳ vàng
Em chợt đến
Sau mưa
Để chợt héo
Trước ngày đông
Tháng giá
Anh chợt đến
Và  chợt về
Xa lạ
Chợt trăm năm
Một khoảnh khắc
Giao mùa
Hoa quỳ vàng
Hoa quỳ nở
Như mưa.
Ngày  22 .1. 1993

Nhận xét:
Một ông trên 70 tuổi mang danh nhà thơ, giữ trọng trách quốc gia mà viết như thế này thì hoạ là điên loạn.

Dịch dễ hiểu:

HOA QUỲ VÀNG

Thông đã nghìn năm
Phố thị trăm năm
Anh đến một ngày
Ơi! Đà Lạt trẻ.
Anh thì quá thể
Mà hoa quỳ vàng
Lặng im bên cửa
Là hoa quỳ vàng
Chút gì ái ngại
Nở chờ anh sang!

Là đã tới thu?
Hay là đang hạ?
Hay vẫn là đông
Mịt mùng sương giá.
Không cao, không thấp
Mà sao vẫn chập chùng!

Mờ mờ ẩn hiện
Ơi, hoa quỳ vàng
Nghiêng nghiêng cánh mỏng
Hớp hồm cao nguyên
Chút gì nương náu
Bao dung nhân duyên!

Em mãi thanh xuân
Anh thì quá đỗi
Ngại ngùng sương núi
Tấc có đượm buồm
Đà Lạt tơ vương.

Anh có gì nhớ
Mà sao âm thầm
Mà sao lưu luyến
Tới buồn muôn xưa!

Hà Nội ngày 29 – 1- 2012
Đỗ Hoàng

Nhận xét:
Bài này kém đến mức không muốn bàn nữa! Chí nguy! Chí nguy! - Đỗ Hoàng.
(Nguồn: blog Đỗ Hoàng)

7 comments:

  1. Phạm Đình TrọngFebruary 9, 2012 2:31 PM
    Blaga Dimitrova là nhà thơ, phó Tổng thống Bulgari, chứ không phải Rumani như Đỗ Hoàng viết.
    Phạm Đình Trọng
    ReplyDelete
  2. Ông Điềm nghỉ hưu lúc đó đã 63 tuổi còn ấm ức nỗi gì, dở hơi à, khiến cho thiên hạ họ chửi cho. Tời ông làm trưởng ban TTVH làm được mỗi cái việc là đưa nhạc sỹ Phạm Duy - bạn của bố ông về nước thôi.
    ReplyDelete
    Replies
    1. Có phải ông NKĐ này đã ra lệnh "nấu bột" CHUYỆN KỂ NẰM 2000 của Bùi Ngọc Tấn? Còn những "công đức" gì nữa? Xin mọi người kiểm kê giùm cho sòng phẳng công tội trước lịch sử.
      Delete
  3. Trời ạ! Có gì lạ đâu ! Quyền lực và tiền bạc luôn luôn ....tỉ lệ nghịch với văn chương và trung thực ! Hãy ngoảnh lại mà xem ...!
    ReplyDelete
  4. Ông NKĐ bị ông Đỗ Hoàng chê thơ dở. Ông NKĐ khi còn chưa làm quan mà chỉ làm thơ,đã để lại cho đời những bài thơ hay ,đáng nhớ. Còn ông Đỗ Hoàng, cũng ghi trước tên mình là NHÀ THƠ, ông Hoàng có bài thơ nào để nhớ không? Các vị chỉ biết chê nhau thôi,chẳng thấy vị nào tự chê mình ! Chịu !
    ReplyDelete
  5. Tôi đố ai tìm thấy 1 người trong số 1000 sinh viên đại học chọn bất kì của khoa XHNV biết "nhà thơ" (?) Đỗ Hoàng là ai, từng có bài "thơ" nào ?
    Tôi cũng đố luôn ai tìm thấy 1 người trong số 1000 người chọn bất kì ở cổng Văn miếu Hà nội ngày hội thơ hàng năm thuộc lấy một câu thơ của Đỗ Hoàng đấy?
    Nhưng tôi lại tin rằng sẽ không khó tìm ra vài người trong số đó thuộc danh tính nhà thơ Nguyễn khoa Điềm và cũng không ít người sẽ thuộc dăm ba câu thơ của ông ấy.
    Ông Đỗ Hoàng có nói hay bằng trời, hoặc chửi rủa vang trời cũng không thể phủ nhận được thực tế này.
    Đúng không ?
    Ông Hoàng đã mắc một căn bệnh truyền nhiễm rất nặng tương đối phổ biến của giới biết cầm "hơi gòn gọn" cây but của VN:"Văn mình -vợ người" đấy mà!
    ReplyDelete
  6. chê thơ và làm thơ là hai chuyện khác nhau mà,không lẽ muốn ói mửa cũng không cho ói à?
    ReplyDelete

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét