Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

Thơ vô lối Nguyễn Khoa Diềm khi về thường dân

Thơ vô lối Nguyễn Khoa Điềm

Thứ sáu - 31/05/2013 10:38
                         
               
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm            Nhà thơ Đỗ Hoàng

THƠ VÔ LỐI NGUYỄN KHOA ĐIỀM KHI VỀ THƯỜNG DÂN
 
                                                   Đỗ Hoàng

      Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những người làm thơ cổ động cho miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến hai miền Nam Bắc Việt Nam thập kỷ 50, 60, 70 thế kỷ trước có sự trợ giúp của nước ngoài ở cả hai phía. Nói cho đúng là cuộc nội chiến nồi da xáo thịt của dân tộc Việt Nam bị các thế lực nước lớn giật giây chi phối cả đôi bên. Trong chiến tranh chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm xếp sau các nhà thơ khác như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy…Khi Nguyễn Khoa Điềm làm quan to thì thơ ông mới to theo, trước đó mấy ai biết ông.
 Thơ của thế hệ này là thơ tuyên truyền một chiều, một phía cho cuộc đánh nhau vì quyền lợi phe nhóm.
Lạ lùng cuộc đời nay
Đến văn chương cũng đĩ
Loài người làm khổ thay
Cái chiến tranh vô nghĩa!
(Tâm sự người lính 1973 – Đỗ Hoàng)
 Chiến tranh dù nhìn ở góc độ nào cũng là nỗi đau muôn kiếp của nhân lạo. Các bậc thành nhân ngày trước bất dắc dĩ dùng binh khí:
Nãi tri binh dã thị hung khí
Thánh nhân bất đắc nhĩ nhi dụng chi
(Lý Bạch)
Binh đao ác độc vô cùng
Thanh nhân cực lắm mới dùng ai ơi!
(Túy thì ca – Đỗ Hoàng dịch)
Sư chi sở xứ
Kính các sinh yên
Đại quân chi hậu
Tán hữu hung niên
(Lão tử)
Chỗ đóng quân lính
Gai góc mọc đầy
Đằng sau cuộc chiến
Đói khổ lắm thay!
(Đỗ Hoàng dịch thơ)
 Những người tham gia cuộc chiến hai miền họ cũng không thoát khỏi áp lực của thể chế , vừa do văn hóa, do tầm nhìn, tầm nghĩ hạn chế nên cả một thế hệ nói theo bài bản định sẵn, viết sẵn hay áp nà, nói lấy được. Những câu chưởi địch không đau, không phải thơ,  kiểu chưởi hàng tôm, hàng cá:
Thành phố mọc như nấm độc những xnách-ba
Mỹ và đĩ
 (Con gà đất cây kèn và khẩu súng – Nguyễn Khoa Điềm)
Hay:
Chỉ cần sự bảo chứng của đô la và súng máy
Cùng cái đầu tối tăm của Giôn xơn, Ních Xơn đặt vào trên đấy!
(Giặc Mỹ)

  Thơ họ là dàn đồng ca không lồ muôn người như một, hô khẩu hiệu suông, cũ kỹ, mòn vẹt , véo von, rập khuôn, sáo rỗng, không có tư tưởng, vô cảm trước nỗi đau của nhân quần trong cuộc chiến đầy chết chóc, xương núi, máu sông! Hình thành nên trùng trùng điệp các nhà cổ động viên, nhà ca học, cười học, hót học, hát học, tấu hài học vô tình hoặc cố tình …
  Thơ Nguyễn Khoa Điềm là loại dịch  nghị quyết tuyên huấn cấp xóm khô khan, không một chút truyền cảm.  Nhiều kiểu định nghĩa các phạm trù đất nước, quê hương không đầy đủ, không chính xác, có phần phản cảm:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm(!)
(Đất nước – Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Đất là nơi anh đá bóng cũng  phải kể  ra chứ… Nước là nơi em khỏa thân soi gương phải kể ra chứ…
   Trong văn chương cũng như trong toán học có những cái không định nghĩa mà chỉ mô tả. Điểm. mặt phẳng, trong toán học; tổ quốc , đất nước, quê hương…là nhữn mệnh người ta chỉ mô tả mà thôi. Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa đất nước thì bao giờ cho đủ.
     Khi đường công danh Nguyễn Khoa Điềm càng cao, sự khô khan xơ cứng trong thơ lại tỷ lệ thuận với chức quyền, còn chất lượng thơ thì tỷ lệ nghịch với chức quyền. Đúng là được mùa cau thì đau mùa lúa; được mùa lúa thì úa mùa cau.
  Cammus từng nói: “Tôi không vì thơ ca mà hy sinh chính trị, nhưng tôi hy sinh những gì làm hại cho thơ ca”. Đấy là chính trị của một châu lục có truyền thống dân chủ tiến bộ, còn chính trị của cộng sản phương Đông, chính trị Tàu Ô thì thôi rồi lượm ơi! Phải bỏ thơ ca mà đi làm kỹ thuật thôi!
  Nguyễn Khoa Điềm muốn bắt cá hai tay vừa làm quan thật to, vừa là nhà đại thi hào. Con rô cũng tiếc, con diếc cũng tham. Nhưng cuộc đời không cho ai vừa giàu như Bin gết, vừa tài thơ như Đỗ Phủ, vừa nhà chính trị quân sự lỗi  lạc như Thành Cát Tư Hãn…
  Thời coi Ban Tư tưởng Văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm để lại nhiều tiếng không hay cho lắm. Ông ta trù úm Hoàng Minh Chính, bắt nhà văn Dương Thu Hương, bôi nhọ Trần Độ, loại bỏ nhiều nhà bất đồng chính kiến, đàn áp những người đòi tự do dân chủ, cấm mạng , cấm internet, đốt thành tro bụi nhưng tập sách như Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn,Chúa trời ngù gật của Nguyễn Dậu, Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngăn cản nhiều nhà văn tài năng vào Hội Nhà văn Việt Nam…Ký duyệt nhiều dự án tiêu hàng triệu đô là tiền ngân sách, thuế dân đống để phe nhóm hưởng lại quả nhưng hiệu quả không là bao như phim Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Công, (phim bỏ kho) 1 triệu đô, phim Dòng sông phẳng lặng (phim bỏ kho), làng văn hóa Đồng Mô (làng bỏ hoang), Bác Hồ với văn nghệ sỹ…
   Đường hoạn lộ của Nguyễn Khoa Điềm khá hanh thông. Nguyễn Khoa Điềm quan quá to. Ông trùm tư tưởng văn hóa của Đáng Cộng sản Việt Nam. Rồi đứt gánh giữa chừng. Ông quan to Nguyễn Khoa Điềm phải về vườn lúc tuổi chưa đến 60, còn một hai nhiệm kỳ trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nữa, nhưng lại bị ông cậu ruột của vợ là Nguyễn Đức Đạo viết đơn tố Nguyễn Khoa Điềm không phải là đảng viên và có thời gian bị tù ở lao Thừa phủ - Huế khai báo với địch.
 Chuyện này tôi biết ở Bảo Đảng Bình Trị Thiên năm 80 – 87. Hồi ấy có chủ  trương ngầm là ai bị tù ngụy thì phải hy sinh cho Đảng, không được tham gia chính quyền vì không biết ai khai, ai trung thành.
  Khi ra Hà Nội học, tôi nghe các anh trong Ban kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam bảo là có đơn tố cáo nói là Nguyễn Khoa Điềm không đảng viên. Tôi nói, tôi có biết việc này hồi ở Huế, nhưng tôi không tin. Vì tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam chặt lắm. Võ Đại Tôn gián điệp về nước đòi lật đổ chính quyền, mới qua biên giới Thái - Lào, mà Hà Nội đã chưởi cha ông Võ Đại Tôn bóc lột nhân lao động Bắc bộ, biết cả chuyện cha ông Võ Đại Tôn hiếp dâm nông dân đẻ ra hàng loạt địa chủ cường hào ác bá khác.
  Nguyễn Khoa Điềm không dấu sự len lỏi để làm quan và làm quan to của mình:
Anh mê mải trên đường hoạn lộ
Ngảnh về quê hư ảnh một vầng trăng
(Cõi lặng).
Thời làm quan to của Nguyễn Khoa Điềm là thời quan uy tín Cách mạng Việt Nam ở vào “ giai đoạn thoái trào”. Đảng Cộng sản Việt Nam xóa bỏ tất cả các đảng phái trở thành đảng độc tài chuyên quyền mất uy tín trầm trọng trong lòng dân tộc. Thời oanh liệt của Đảng Lao động Việt Nam không còn nữa. Thời dân và Đảng trên dưới một lòng, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào đi vào miền cổ tích. Nạn tham nhũng, mua quan bán tước lan tràn vô phương cứu chữa, quan lại làm giàu trên nước mắt mồ hôi người lao động.
Nó không khác gì bài ca tố cáo địa chủ, phong kiến đàn áp dân nghèo thời tiền Cách mạng:
Chưa hết mùa, trong nhà ta đã hết lúa
Đói xác xơ thương đàn con vất vả
Môn khoai sắn ngày qua ngày lọt dạ
Bởi địa tô chúng bóc lột công sức ta.
Chúng cấu kết cùng nhau cường hào gian ác
Đại chủ ngoan cố đè nén lên đầu bao người
Làm giàu trên nước mồ hôi người nông dân
Cướp trâu, cướp ruộng, cướp nhà người nông dân
Cướp con, cướp vợ, cướp nối người nông  dân
Bần cố nghèo khổ muôn đời…
   Trước đó nhiều kẻ sỹ, thi sỹ như: Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Phan Khôi, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán đã rút lui để giữ khí tiết.
 Bang hữu đạo tắc hiện, bang vô đạo tắc ấn. Bang hữu đạo bần ngã tiện ư sỷ giả, bang vô đạo phú ngã tiện ư sỷ giả (Nho giáo – Khổng tử) Nghĩa là: Nước có đạo thì nên ra làm việc giúp đời; nước vô đạo thì nên lui về giữ danh tiết. Nước có đạo mà ta nghèo là ta xấu; nước vô đạo mà ta giàu là ta xấu. Bỡi vì nước có đạo dung hiền tài, ta không tài nên mới không được dung nên phải nghèo. Nước vô đạo dùng kẻ xấu xa, ta xấu xa nên mới được dùng thì giàu là quá xấu.
  Người quân tử phải hiểu ra điều đó. Người không hiểu ra thì không phải là quân tử. Kẻ không quân tử mới bè phải, đảng phái.
   Quân tử bất đảng phải (Luận ngữ) - Quân tử không bè đảng, không bè phái. Quân tử, đại trượng phu, thi nhân không a dua, không hùa với đám đông:
Thị dĩ đại trượng phu
Xử kỳ hậu bất cự kỳ bạc
Xử kỳ thực bất cự kỳ hoa
Cố khứ bỉ thư thử
(Lão tử)
Phàm bậc trưởng lão
Xa chốn nhố nhăng
Bỏ hoa lấy quả
Trời đất cân bằng!
(Đỗ Hoàng dịch)

 Chuyện chính trị nói như trong Nam là không bàn, nay chỉ nói chuyện thơ của Nguyễn Khoa Điềm khi mất chức về vườn.
  Người Việt hay nhân loại nói chung đều tha thứ lỗi lầm của con người trước đây. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn viết được còn trăn trở cùng nhân dân thì là đáng quý. Chuyện đi với bụt mặc áo cà sa đi với ma thì mặc áo giấy là chuyện người tầm thường muôn đời rồi.
  Thánh Phê rô một tông đồ thân cận của Chúa Giê su. Trước đó là một tội đồ quyết tâm hành hung giết Chúa. Sau khi được cải hóa thánh Phê rô có nhiều thành tích trong làm việc nghĩa, việc thiện được Chúa tin yêu. Có lần Thánh Phê Rô hói Chúa: - Người bị phạm lỗi 7 lần tha thứ có được không? Chúa trả lời: - Kẻ phạm tội, ta 77 lần tha thứ.
   Thơ tuyên truyền của Nguyễn Khoa Điềm trước đây được giới phê bình chính thống tung hô rầm rộ; thơ vô lối của Nguyễn Khoa Điềm khi về vườn cũng được một số người cỗ vũ.
  Để có cái nhìn đúng về những viết của Nguyễn Khoa Điềm mà gọi là thơ gần đây, tôi có vài thiển ý nhỏ.
  Tất cả những bài viết của Nguyễn Khoa Điềm trên các trang mạng xã hội, báo in chính thống đều thể hiện một tâm trạng bực tức, hằn học, tiếc nuối thời vàng son. Không có một chút gì gọi là thơ ca. Nó là một thứ Vô lối đang thịnh hành mà Nguyễn Khoa Điềm cố từ chối không nhận mình là làm Vô lối:
Rằng tôi không bợ đỡ ngôn từ, điếu đóm hậu hiện đại
Bưng mâm cho các cô nàng gót sen ba tấc chữ
(Comment – Tạp chí Thơ số 4 -2013)
 Nguyễn Khoa Điềm làm Vô lôi nhưng viết không chân thành, giả nên không vào lòng người đọc.
 Từ xưa đến nay, trong nước và trên thế giới, nhiều nhà thơ làm quan to, thậm chí là vua giữ nhiều trọng trách của đất nhưng thơ của họ đi vào lòng dân, được nhân dân truyền tụng:
Oa oa …oa oa..oa
Cha  trốn đi lính nước nhà
Nên khổ thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha!
(Hồ Chí Minh)
Chu Thần nay ở nơi đâu
Để cho Miên Thẩm lên lầu không an
Tháng ngày tựa án lan can
Mãi trông mây cuốn trời Nam dặm nghìn
Dấu xưa nay biết đâu tìm 
Thương ai bảy nổi ba chìm nước non
Trăng kia khi khuyết khi tròn
Tinh thần phản kháng vẫn còn sáng soi.
(Sóng Hồng- Trường Chinh)
   Nguyễn Khoa Điềm viết cho bạn thân là người từng đóng gạch với mình, người tri âm tri kỷ nhưng vẫn lấy cái giọng kẻ cả, khệnh khạng quan trên  ban phát thương xuống, không một chút rung động:
Bạn chừ đóng gạch nơi nao
Văn chương lấm láp vêu vao mặt người
Bất ngờ bạn đến thăm tôi
Gửi cho nhiều sách, Ối giời là thơ!
….
Mong sao bạn bớt bồi hồi
Hãy làm thơ nữa để rồi gặp nhau.
(Bạn thơ – Nguyễn Khoa Điềm)

Sự khệnh khạng, cao ngạo bề trên, hổn xược với tiền nhân thể hiện nhan nhản trong thơ và trong Vô lối của ông:
Cái chết của viên tham tri hay thơ âm thầm trong chính sử
Mất hút một con thuyền chuồi qua cửa Thanh Long
(Nguyễn Du)

Thơ ca là bộc lộ sự thành thật, sự thành thật được trọn vẹn thì thơ hay (Bê se)
 Ngày trước,  thi hào Bạch Cư Dị là một trong tam kiệt của Đường thi (Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị). Ông làm quan đến Thượng thư nhưng thơ rất chân thành. Ông không đạt chiều cao của Lý Bạch, chiều sâu của Đỗ Phủ nhưng ông đạt được chiều rộng của thơ, chỉ vì khi nói tới nỗi khổ con người ông là người ngoài cuộc. Nhưng không vì thế mà không xúc động, không lưu truyền đến đời sau:
Kim ngã hà công đức?
Tằng bất sự nôn tang
Lại lôc tam bách thạch
Tuế án dữ dư lương
Niệm thử tự tứ quý
Tận nhật bất năng vương
(Quan nghệ mạch)
Ta có tài đức gì?
Không hề đi cấy cày
Lương ba trăm thạch thóc
Hết năm bồ còn đầy
Nghĩ vô cùng hổ thẹn
Mặt đỏ hết mấy ngày!
(Xem gặt lúa)
Thơ vô lối của Nguyễn Khoa Điềm luôn luôn giả, luôn luôn sượng không thành tâm chút nào:
Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ
Bên dòng sông như chưa biết chiều tan
Tôi với nó lặng im bè bạn
Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang
(Chiều Hương Giang)
 Bản thân anh và loài người anh xơi tái hàng tỷ con bò mà vẫn coi nó là bạn thân thì là một việc xưa nay hiếm(!)
Một việc xưa nay chưa từng có.
Anh xơi tái muôn loài gặm cỏ
Mà chiều nay anh nổi tuyên ngôn
Anh với chúng bạn bè gắn bó!
(Thơ 4 câu – Đỗ Hoàng)
  Nhìn chung tất tần tật Nguyễn Khoa Điềm viết cái gì đều không thật, như là của giả.  Trong chính trị người ta thường dùng thủ đoạn để lừa nhau, để tranh thủ phiếu. Chỉ một cái táng tận lương tâm, kẻ hãnh tiến đoạt được một giang sơn. Song trong thơ ca dùng lừa đảo hoặc nói điều giả đối thì anh mất sạch. Giả dối là điều tối kỵ với thơ ca.
 Nguyễn Khoa Điềm than nghèo, nhưng người đọc nghe nó sến sến thế nào, bởi Nguyễn Khoa Điềm có nghèo đâu. Nhà lầu bốn năm tầng ở khu quan to Đội Cấn – Hà nội một thời có lính gác, nhà vường ở Huế mấy con mèo, con chó chạy một ngày chưa chắc đã hết vườn. Rồi còn biết bao của chìm của nổi khác nữa. Lương hưu của Nguyễn Khoa Điềm cao gấp mấy chục lần nhưng cán bộ quèn đang công tác. Làm sao mà nghèo được. giả nghèo thì được làm thơ giả nghèo thì là đồ giả.   Một ông quan to cỡ tột đỉnh như Nguyễn Khoa Điềm, nhiều kẻ có trang trại trên núi non chuyển đổi đất mường thành đất thủ đô thì làm sao họ cơ ngã như nông dân được. Họ làm sao mà nghèo đói. Một ông bí thư chi bộ xóm trong thể chế đảng trị cộng sản hơn nhiều lần quan phụ mẫu ngày xưa. Nên cái việc than nghèo của ông quan nhất phẩm Nguyễn Khoa Điểm rất giả dối:
Đêm đêm cái nghèo vuốt ve trán người chồng
Khẻ nâng bàn tay người vợ
Đặt cái hôn lên đôi chân trần đứa trẻ
Và thầm ngủ ngon… ngủ ngon…
(Đêm đêm – tạp chí Thơ số 4 -2013)
        Cái nghèo đi đêm của Nguyễn Khoa Điềm không đàng hoàng chút nào. Cái nghèo này là cái nghèo khai bậy để hưởng hộ nghèo mà Nhà nước triển khai mấy năm qua.
      Hơn nghìn nắm nay, các thi hào kim cổ đều nói tới cái nghèo. Cái nghèo của họ có thật nhưng không bị lụy, không khai gian nghèo. Họ nói lên được  cái nghèo của họ được mọi người đồng cảm thấu hiểu và chia sẻ. Nghèo họ cũng là nghèo mình. Nghìn năm rồi đọc cái nghèo của Đỗ Phủ ta còn xúc động:
An đắc hạ thiên vạn gian
Đại tý thiên hạ hàn sỹ câu hoan nhan
Ô hô! Hà thì nhãn tiền đột ngột hiện thử ốc
Ngô lư độc phá thu đồng tử diệc tức.

(Ước được vạn gian phòng rộng rãi
Kẻ sỹ nghèo có mái nhà che
Bao giờ? Hãy hiện ngay đi.
Thân ta chết cóng có gì ngại đâu.)
(Đỗ Hoàng dịch)
(Mao ốc vị thu phóng sử phá ca -
Bài hát gió thu thổi tốc nhà)
Xúc động với cái nghèo của Nguyễn Trãi:
Thập tải đọc thư bần đáo cốt
Bàn vô mục túc tọa vô chiên
(Mười năm đọc sách nghèo đến tủy
Mân không rau cỏ, chỗ đâu ngồi)
(Đỗ Hoàng dịch thơ)
Cái nhèo của Nguyễn Du thậm đau đớn. Cha làm quan mà con đói rét. Có khác gi Đỗ Phủ làm Tả thập di – Quan can gián vua mà con chết đói:
Thập tử cơ hàn bắc môn ngoại
( Mười miệng đói xanh ngoài cửa Bắc)
Và Nguyễn Khuyến:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
 Thơ ca cổ kim có nói đến cái chết. Chết là cái quan định luận. Lúc đó mới nói đúng cái được cái mất của đời người. Các thi hào xưa nay nói tới việc này một cách vô tư, thanh thoát, nhẹ nhõm, bởi vì cuộc đời của họ quá sáng trong, không bụi mờ:
Sống không để tiếng đời ta thán
Chết lại về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vuông tròn
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì
(Di chúc thư – Nguyễn Khuyến)
Hay:
Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời
(Cao Bá Quát)
Nguyễn Khoa Điềm nói đến cái chết như một lời thách thức, cao ngạo, rất cải lương, khô khan đại hạn:
Khi cái chết chắn cửa
Đời tôi
Cám ơn!
(Comment)
 Phần viết của Nguyễn Khoa Điềm khi mất chức quan to về vườn không có đổi mới, sáng tạo gì. Nó là một  thứ  Vô lối xuất hiện từ mấy thập kỷ vừa qua. Nhiều câu dở hơn câu nói bộ:
Dậy thức hút thuốc vặt ( Đất nước những tháng năm thật buồn)
Tôi bày tỏ chính tôi,câu chữ của tôi, nước mắt của tôi (Comment)
Ngoài đường trẻ con đi học,trong nhà người già ngủ (Mùa bình thường)
Dùng nhiều âm Hán Việt , chữ nước ngoài chưa được Việt hóa: trật cước, comment…
  Người đọc tìm đọc Nguyễn Khoa Điềm làm thơ khi mất chức là vì người đọc tò mò, hiếu kỳ, không biết ông quan to hưởng không biết bao nhiêu bổng lộc của “triều đình”, bao nhiêu phần trăm dự án ma, dự án không ích nước lợi dân, bao nhiều biệt thự, đất đai mà vẫn làm thơ, thơ hồi hưu có khác gì không?
  Dù những điều Nguyễn Khoa Điềm viết ra chưa phải thơ nhưng bạn đọc cũng có phần đồng cảm những nỗi trăn của ông. Hóa ra khi ngồi dưới đất ông mới thấy rằng dân đen người ta đau khổ biết nhường nào. Nỗi khổ của họ có phần do ông gây nên.
 Bây giờ có nhiều quan điểm thơ: thơ siêu việt, thơ hậu hiện đại, thơ hậu hậu hiện đại. Tìm tòi là đáng quý, nhưng tìm tòi phải vào trái tim người đọc. Cònviết những điều mình cũng không hiểu, không biết thì làm sao thành công.
 Thơ hậu hiện đại của Ion Milos (nhà thơ Thuỵ điển) vào được đọc giả vì có tứ, có nghĩa, tầm tư tưởng, triết học cao:
Tôi mua một con chó 
Để có bạn bầu
Trò chuyện sớm hôm..

Và rồi một hôm
Chó thổ lộ với tôi một điều rất lạ.
Rằng con người đã từ lâu
Không còn nói ngôn ngữ của con người…
(Con người và con chó - Phạm Viết Đào dịch)
Thơ và Vô lối Nguyễn Khoa Điềm không như vậy.
    Đáng ra nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm phải chân thành hơn, sám hổi hơn:
“Ta xin chịu tội khi ta u mê cái triết học du nhập lai căng lỗi thời, không nói cho đám đầu trâu mặt ngưa đồng liêu với ta tỉnh ra, 
khi ta trù úm, sát phạt với các huynh Hoàng Minh Chính, Trân Độ, 
Xin thắp nén nhang cho các tác phẩm ta ra lệnh đốt thành tro
Lạy văn sỹ tài danh Dương Thu Dương bị đi tù.
Vái linh hồn các nhà dân chủ , các trang mạng xã hội chính ta đàn áp
Các chị bán cá Vỹ Dạ ơi!
Tôi xấu hổ giọt nước mắt tôi trộm rơi
Khi nhìn các chị chao chát nói cười, tiếng thở than hả hê, tiếng rên rỉ của những tờ bạc vụn.
Trong khi tôi tiêu hoang bạc kho, vàng đụn
Lấy thuế từ tấm lưng còng của các chị đây!
Từ nay đi cùng các chị 
Tôi tự căm tôi đã đào tạo nguồn những tay làm nghề tôi, nối ngôi tôi là nghề nói láo!
Nghề mà phải bớt gạo 
Trong nồi của các chị để cho chúng nó ba hoa!
Ôi biết bao cuồng phong văn chương bão táp do tôi gây ra

Tạ lỗi quê nhà
Tạ lỗi những người mò hến không có hến ngày ngày đêm đêm bên Cồn Hến để kiếm cháo rau

Điềm tôi đây
Xin đập đầu chịu tội!
   Tôi tin nếu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết như thế chắc bạn đọc sẽ quý trọng ông nhiều hơn nữa!
Hà nội, ngày 31 tháng 5 năm 2013
Đ - H
 

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2013

Thơ vui tặng Đỗ Hoàng

Thơ vui Trần Hậu

Thứ sáu - 24/05/2013 15:17

 Nhà thơ Trần Hậu

THƠ VUI TẶNG ĐỖ HOÀNG

Nhìn từ xa Đỗ Hoàng,
Hao hao như Xuân Diệu,
Cũng mái đầu rất điệu,
Gờn gợn sóng Quy Nhơn.

Đỗ Hoàng nhìn gần hơn,
Chẳng giống gì Xuân Diệu,
Đỗ Hoàng vốn hay rượu,
Còn Xuân Diệu thì không.

Đỗ Hoàng yêu mênh mông,
Xuân Diệu “yêu là chết”,
Xuân Diệu không vợ con,
Đỗ Hoàng – nhiều khôn xiết!

Đỗ Hoàng và Xuân Diệu,
Nhìn gần rồi nhìn xa -
Hai tài năng tiêu biểu,
Của nền thơ nước ta!
THƠ VUI TẶNG ĐỖ HOÀNGNhìn từ xa Đỗ Hoàng,Hao hao như Xuân Diệu,Cũng mái đầu rất điệu,Gờn gợn sóng Quy Nhơn.Đỗ Hoàng nhìn gần hơn,Chẳng giống gì Xuân Diệu,Đỗ Hoàng vốn hay rượu,Còn Xuân Diệu thì không.Đỗ Hoàng yêu mênh mông,Xuân Diệu “yêu là chết”,Xuân Diệu không vợ con,Đỗ Hoàng – nhiều khôn xiết!Đỗ Hoàng và Xuân Diệu,Nhìn gần rồi nhìn xa -Hai tài năng tiêu biểu,Của nền thơ nước ta!

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Điềm ơi! Đừng rên rỉ nữa.


Điềm ơi! Thôi đừng rteen rỉ nữa.

Thứ hai - 20/05/2013 12:02



 

Thái Doan Hieu  (phải) và Nguyễn Trọng Tạo




ĐIỀM ƠI, THÔI ĐỪNG RÊN RỈ NỮA !

{Trả lời bạn văn Đinh Triết ở Australia và một số bạn đọc không hiểu yêu cầu trợ giúp sau khi đọc bài tản văn
của tôi Không tiêu hóa được chính kiến (1) đăng trên trang trannhuong.comvà một số web khác]


THÁI DOÃN HIỂU

Anh Hiểu,
Tôi không mở được mã bài chẩn bệnh của Anh  đối với Nguyễn Khoa Điềm chính xác đến mực nào ?
 Triết

Thưa Anh Đinh Triết, cùng các bạn đọc yêu quý.

NGUYỄN KHOA ĐIỀM khi còn đi với Nhân Dân thì viết được những bài thơ vềĐất Nước rất hào sảng, nhưng khi leo lên đến đỉnh cao của quyền lực thì quyền lực lại nhanh chóng biến đổi  con người.Thôi đành, đi theo ma phải mặc áo giấy vậy, quay lưng lại với Nhân Dân. Nguyễn Khoa Điềm dĩ nhiên không có cái khí phách can trường của Chu Văn An dâng sớ lên vua đòi chém 7 tên gian nịnh hách nhất trong triều, Điềm về hùa với nhóm lợi ích, cưỡng bức 90 triệu dân đi theo vết xe đổ của CNXH. Hệ quả là đất nước cứ bùng nhùng trong hàng chục quốc nạn không có lối ra, nặng nhất là chảy máu chất xám và tệ tham nhũng với hàng bầy sâu dân mọt nước, nạn cường hào cướp đất của dân, nạn công an làm luật trắng trợn trên mọi nẻo đường giao thông, nạn dối trá, bịp bợm, nạn  hội chứng chạy, phong bì, nạn ma tuý xì ke, đĩ điếm, nạn kinh doanh quyền lực, mua bán bằng cấp, nạn buôn thần bán thánh, nạn dùng luật rừng xử án phơi bày tất cả sự yếu kém của nền tư pháp Việt Nam trước bàn dân thiên hạ… Đất nước thiếu lãnh tụ - người cầm lái và cầm cân nẩy mực từ trên xuống dưới. Xã hội phân hóa giàu – nghèo thảm khốc. Chúng ta đang sống trong thời kỳ “đồ đểu” lên ngôi (Trần Quốc Vượng) với một xã hội đảo điên bởi sự thao túng từ các tay nô bộc bất tài vô đức. Trong thời gian đương chức đương quyền, Điềm cũng làm nhiều trò lố: đàn áp các nhà Dân chủ đòi đa nguyên đa đảng, cho tay chân bao vây ném đồ thối vào nhà thầy học của mình là Cụ Hoàng Minh Chính, bịt miệng, bỏ tù nhà văn Dương Thu Hương  và các văn nghệ sĩ đòi tự do cho ngòi bút. Nhưng khi về vườn, trở lại với đời sống thường nhật của một dân đen, tiếp xúc với đời sống nheo nhóc cùng khốn của người dân Huế, Nguyễn Khoa Điềm mới vỡ mộng ra là những lý tưởng mà anh ta ôm ấp bấy lâu chỉ là cái tưởng ...có lý ! Cuộc cách mạng lạc đường rồi ư ? cách mạng đổ ra cả núi xương sông máu mà không có mục đích ? Nước Nhật bại trận năm 1945, sau 30 năm thành cường quốc kinh tế. Nước Việt Nam thắng trận năm 1975 đánh bại tên Hung nô bạo tàn nhất thế giới, sau 30 năm vẫn là nước lệt đệt theo sau thế giới về nghèo đói và lạc hậu. Toàn bộ kinh tế khổng lồ của đất nước hằng ngày ào ạt chảy vào hồ lô những nhóm lợi ích, những tên tư sản đỏ, của cải chúng vơ vét được mấy chục đời ăn không bao giờ hết. Độc lập mà không có tự do, độc lập mà không có cơm no áo ấm cho dân, cả nước vẫn sống dưới mức nghèo khổ so với thế giới thì độc lập ấy có nghĩa lý gì như bác Hồ đã dạy. Lỗi tại ai vậy thưa đồng chí UVBCT Nguyễn Khoa Điềm ? Tại các đồng chí lãnh đạo chứ còn ai, trong đó có ngài ! Thế là Nguyễn Khoa Điềm rơi vào khoảng trống cô đơn, rối loạn tín ngưỡng, sợ hãi, tuyệt vọng, lạc lõng với mọi người. Anh ta buồn, anh ta sám hối, anh ta lo lắng cho vận nước (!?) Lo lắng cái nỗi gì ? Khi quyền lực có trong tay thì Điềm không cất chân động tay, nay sư tử rụng hết nanh vuốt lại ngồi trong xó gầm gừ, xót xa cho hiện tình đất nước: văn hóa xuống cấp, đạo đức băng hoại, tình người trắng vôi, khủng hoảng niềm tin từ trên xuống dưới. Là Trưởng ban Tuyên giáo TW đảng, bộ trưởng bộ văn hoá - người nắm linh hồn dân tộc sao Điềm không có một quyết sách nào tử tế để cứu nguy dân tộc ? mà còn than cái nỗi gì ?  Mới rời khỏi cỗ xe quyền lực, Điềm hỏi rất ngố "Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta - Trong không gian đầy sợ hãi?...”. Thì vào tay ai nữa, nó nằm trong tay bọn đàn em ở bộ Chính trị của Điềm chứ chạy đi đâu ? Quyền lực của một UVBCT thì cao ngất ngưởng nhưng không có thực quyền tập trung. Bộ Chính trị chỉ là một thứ vua tập thể với 15 ông vua con mà bạn đọc cũng cần thông cảm cho Điềm. Danh hư họa thực là vậy. Đi với BCT thì được mình, đi với Dân thì mất mình. Nguyễn Khoa Điềm những năm tháng trong BCT giống như ngồi trên lưng cọp. Gương Trần Xuân Bách còn sờ sờ ra đó.Từ một trí thức thông minh, học rộng biết nhiều, đức độ muốn tồn tại Điềm phải tập làm con chim khướu hót theo. Không hót thì chết. Có thể chính Điềm và NPT là tác giả đại tài chế ra công thức trộn nước vào lửa "kinh tế thị trường định hướng XHCN" tạo nên một nền kinh tế TBCN hoang dã méo mó què quặt không giống ai. Tuy thế, uy tín của Nguyễn Khoa Điềm cũng nhiều phen gieo neo. Khi cử người đi dự đại hội Đảng khóa XI,  Điềm chỉ được hai phiếu.

Bi kịch của Nguyễn Khoa Điềm là bi kịch của một người không tiêu hóa được chính kiến, không tìm ra phương hướng cho cuộc đời mình, cho vận mệnh của đất nước. Cuộc đời của Nguyễn Khoa Điềm giống cuộc đời của Tô Đông Pha và Nguyễn Du trong tâm trạng hoạn lộ thì hanh thông nhưng trong bụng toàn chứa những cái không hợp thời, quá đát.

Nguyễn Khoa Điềm và Thái Doãn Hiểu tôi có khá nhiều điểm giống nhau: Điềm xuất thân trong một gia đình danh gia vọng tộc, có bà nội là công chúa con vua Thành Thái, có cha là nhà phê bình văn học macxit xuất sắc Hải Triều (3), có cô ruột là nguyên Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.  Hiểu tôi sinh trong một gia đình nhà nho thanh bạch, có bố là nhà cách mạng lão thành Thái Doãn Tiên, Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương 1930,  là nhà giáo trí thức tham gia Xô viết Nghệ Tĩnh, bạn tù của Hồ Tùng Mậu và Tôn Quang Phiệt. Hai người Điềm - Hiểu cùng ra đời trên giải đất hẹp miền Trung nghèo kiết. Hai người cũng sinh năm Quý Mùi 1943. Hai người cùng học Đại học Sư phạm một thời, cùng trở thành thầy giáo  văn chương. Điềm và Hiểu cùng tham gia chiến tranh chống Mỹ. Điềm làm thơ và trở thành nhà thơ nổi tiếng, Hiểu viết nghiên cứu và phê bình văn học, trở thành học giả ngoài quốc doanh đáng nể. Điềm làm Chủ tịch Hội Nhà văn, Hiểu cũng chẳng màng vào Hội. Điềm lên làm bộ trưởng bộ Văn hóa, Hiểu cũng chẳng động dong. Điềm leo lên làm UVBCT phụ tranh văn hóa tư tưởng, Hiểu vẫn chỉ là Phó thường dân Nam Bộ. Cái số nó thế: Điềm sinh ra là để làm quan, Hiểu sinh ra là để làm dân.  Điềm thuộc giai cấp thống trị ăn trên ngồi trước cỡ bự, Hiểu tôi thuộc giai tầng bị trị dưới đáy. Điềm xa rời Nhân Dân hơn 15 năm, Hiểu tôi trọn đời trước sau như một dùng cây bút phụng sự Nhân Dân không bao giờ chệch hướng.

Điềm ạ, không như anh, giới trí thức chúng tôi buồn từ lâu những ba bốn chục năm nay cho sự hẩm hiu của đất nước, sự lầm than của Nhân Dân. Chúng tôi thì chẳng có thời gian để buồn, ngày ngày phải đánh vật với đồng lương chết đói trên thí  dưới cho, chỉ  đủ “cầm hơi và để khỏi mất giống” (K.Mác). Đọc "Đất nước những tháng năm thật buồn"  (3) của Điềm quả buồn thực. Nó phả cái nỗi buồn nhếch nhác sang cả tôi. Điềm thường xuyên sống trong nhung lụa, quyền uy sinh sát trong tay, miệng nói ra toàn là gang là thép, có bao giờ Điềm biết buồn. Thế mà nay toàn cái giọng hắt ra. Điềm "chường cái mặt thật của mình trong thơ" (4) cho bàn dân thiên hạ chiêm quan. Dại thật. Làm chính trị phải có thủ đoạn và nói dối như cuội. Làm thơ cũng vậy thôi. Sao Điềm dại  thế ? cứ thổ lộ bô lô hồn nhiên như thời "Mặt đường khát vọng" vậy sao ? Điềm là người từ xứ sông mê trở về cơ mà, người ta sẽ xét nét Điềm ở mọi phương diện.

Không còn quan dân lệ cách với mấy lần lính gác, một vị đại đại quan viên Nguyễn Khoa Điềm và một gã thảo dân Thái Doãn Hiểu bây giờ đã có thể ngồi với nhau trong một quán cóc lơ xơ bên bờ sông Hương sì sụp xơi với nhau một tô bún Huế cay xè ngún khói hoặc nhâm nhi vài cái bánh bèo, bánh nậm, đọc cho Điềm nghe chân dung của Điềm được Hiểu khắc chạm khá kỳ công những bốn chục trang trong "Thi nhân Việt Nam hiện đại" (5). Nhưng không, ra Huế dự Fettivan thơ Huế năm 2008, hắn  không dành làm chuyện theo thói tục này mà nhảy núi, chui vào thảo am đàm đạo rất tâm đắc việc đời việc văn với Tỳ kheo Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Trần Đăng Khoa tinh ý nhận ra kẽ nứt Hiểu đã xem thường Điềm từ đó và cứ cười ngất mãi.

Điềm ơi, thôi đừng làm thơ, đừng ngậm ngùi rên rỉ nữa ! Lộ bem ra cả rồi. Các nhà thơ Trần Mạnh Hảo, (6), Lê Duy Phương (7) thương tình mà tán dương  thế thôi, chứ thực ra lôi kéo một người đã hết xí quách như Điềm bây giờ phỏng có ích gì. Chẳng qua là họ muốn tìm sự đồng cảm ở Điềm để xả xú bắp nỗi sầu nhân thế ra mà thôi. Lại khen thơ Điềm "Những câu thơ tuyệt hay mà nhà thơ rút ra từ gan ruột đã làm tôi choáng váng"  (6). Kể cả Thanh Thảo và một vài gã nữa, họ nịnh đầm đấy. Nếu lấy mỹ học làm thước đo thì thơ Điềm chỉ rặt một loại văn xuôi chặt khúc, chẳng có câu nào hay cả. Từ ngày về hưu, Điềm làm cả tập thơ, chẳng bài nào lọt mắt xanh nhà phê bình Thái Doãn Hiểu, nó làng nhàng những lời thở than sám hối dại dột, chỉ làm sướt mướt một số mệ hay mủi lòng, nó gây kích thích tò mò cho một số kẻ ưa thóc mách buôn dưa lê. Ừ, thì người ta cũng quý Điềm ở chỗ : sau lần áo vải trái tim của một quan lớn vẫn chưa đến  nỗi xơ cứng, vẫn còn biết đập một nhịp thắm đỏ với Nhân Dân, vẫn còn biết yêu ghét, giận hờn, buồn tủi, đắng ngọt… với chốn nhân gian bé tẹo này !






---------------------------------------------------------------------------------

(1) Không tiêu hóa được chính kiến 

http://trannhuong.com/

http://nguyentrongtao.info/2013/05/06/khong-tieu-hoa-d%C6%B0%E1%BB%A3c-chinh-ki%E1%BA%BFn/

http://vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/to-dong-pha-om-toan-nhung-cai-khong-hop-thoi

http://docago.wordpress.com/2013/05/06/thai-doan-hieu-khong-tieu-hoa-duoc-chinh-kien/


Không tiêu hóa được chính kiến

                          Riêng tặng Nguyễn Khoa Điềm

THÁI DOÃN HIỂU


Quan Thượng thư Bộ Lễ Tô Đông Pha vào triều chầu vua Triết Tông xong, về nhà quá chén bụng căng tức anh ách. Ông lấy tay xoa bụng, thong thả đi tản bộ cho tiêu bớt, mặt  nhăn nhăn nhó nhó, quay phải quay trái hỏi gia nhân theo hầu:

- Các ngươi thử đoán hộ xem cái chi trong này ?

Một hầu gái nhanh nhảu:
-  Dạ thưa đại nhân, toàn là thi phú vàng ngọc cả ạ !

Tô Đông Pha lắc đầu. Lại một hầu nam thưa:
- Bẩm ! Toàn gan ruột cả ạ ?

Tô lắc lắc đầu quầy quậy, cho là trả lời chưa thỏa đáng. Đến lượt mình nàng Triêu Vân thưa:

-  Kẻ sĩ là hàng tôn qúy của triều đình ôm một nang toàn những cái không hợp thời cả ạ!

Nghe nói trúng ý mình, Tô ôm bụng cười ha hả !

LỜI BÌNH:

Cười ha hả mà ruột gan lại đắng chát héo quắt ! Ở đời còn gì chán chường và lố bịch hơn khi phát hiện ra rằng những lý tưởng mà mình ôm ấp trong lòng chỉ là cái tưởng có… lý ! Phải chăng thoại kể trên đây là sự thức tỉnh, sám hối của Tô Đông Pha trong những năm tháng đạt vận nhất của cuộc đời hoạn lộ dưới ô dù che chở của Tể tướng Tư Mã Quang? Sao lại đi với Bóng Tối là phe Cựu đảng đã bị đánh bại c ủa Vương An Thạch là lực lượng tiến bộ đang vươn ra phía Ánh Sáng ? Có lẽ đó là sự tan rã tất yếu óc cố chấp, thói bè đảng ti tiện khi người ta dám từ bỏ đặc quyền đặc lợi riêng để phụng sự cho cái chung là Tổ quốc, từ đó để giải quyết thỏa đáng vấn đề chỗ đứng của cá nhân trong lịch sử.

Đọc truyện Tô Đông Pha, tôi lại nhớ đến cảnh ngộ của Nguyễn Du quãng làm quan cho triều đình nhà Nguyễn khi ông tự diễu mình:

Đa thiểu nhất tâm trung sở sự
Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ nhi
(Những người cứ trung thành với kẻ mình giúp việc
Thường để người đời chê cười cho đó là ngu)

Người đời, có ai rơi vào trạng huống khó xử: không tiêu hóa được chính kiến của mình như ông Thượng thư bộ Lễ họ Tô và ông Tham tri bộ Lễ họ Nguyễn này không nhỉ? 

 

Nhà tho Nguyen Khoa Điềm

(2) Năm 1970, khi đi thực tập sư phạm ở Đông Sơn, Thanh Hoá, tôi và một nhóm sinh viên trường Đại học sư phạm Vinh đã trèo lên đỉnh rừng thông viếng mộ ông Hải Triều thân phụ Điềm - người nổi tiếng là chủ soái của cuộc tranh luận nẩy lửa giữa "Nghệ thuật vị Nghệ thuật" và "Nghệ thuật vị nhân sinh" .


(3)  Đất nước những tháng năm thật buồn
Nguyễn Khoa Điềm



NQL: Mình vừa nhận được thơ bác NKĐ gửi cho, tác giả của những vần thơ về Đất nước cháy bỏng năm xưa lại ngậm ngùi nghĩ về Đất nước hôm nay. 
Đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn” của bác Điềm, mình bất chợt nhớ đôi câu thơ của bác:
Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ/ vô tư quá để bây giờ xao xuyến... tự nhiên thấy cay cay đầu sống mũi.

Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác

Sao mình thức ?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành ?

Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay …
 22.4.2013
About these ads


(4) Tên một bài báo tâm sự của Nguyễn Khoa Điềm.

 (5) Trong Thi nhân Việt Nam hiện đại, Thái Doãn Hiểu xếp Nguyễn Khoa Điềm vào số 152 nhà thơ có công đổi mới thế ca Việt nửa cuối thế kỷ XX. Chân dung của Nguyễn Khoa Điềm rất đẹp, tỉ mỉ và chân xác  trong bộ sách trường thiên 4.000 trang.

(6) Thơ Trần Mạnh Hảo:

Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?

Trần Mạnh Hảo




Lời mào đầu của tác giả: Tôi viết bài thơ này sau khi đọc bài thơ “ Đất nước những tháng năm thật buồn” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập đã đăng bài thơ này trên trang web Quê choa ngay sau khi tác giả gửi đến. ( tại đây)
Cũng xin cám ơn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã gợi hứng cho tôi viết bài thơ “Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng ?”. Nguyễn Khoa Điềm thế hiện trong bài thơ “ Đất nước những năm tháng thật buồn” là một con người cô đơn tuyệt đối trong một xã hội mà đảng cộng sản muốn tập thể hóa cả tấm hồn con người. Sao trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa vui hơn tết này mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại thấy đất nước mình buồn thảm dường ấy ? Những câu thơ tuyệt hay mà nhà thơ rút ra từ gan ruột đã làm tôi choàng váng
:
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?

Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ “ thời chống Mỹ” gần như duy nhất còn có thể làm được thơ hay. Maiacopxki từng nói : “Anh có thể dối em tất cả nhưng trong thơ anh không thể dối”. Tôi không tin vào những bài thơ nhàn nhạt, tôi chỉ tin vào thơ hay. Anh Điềm làm thơ hay như thế khiến tôi tin anh đang thành thật bộc lộ con người cô đơn, con người gần như tuyệt vọng vào một đất nước đang bị băng hoại như đất nước ta hôm nay. Có khá nhiều người vẫn lên án nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chỉ vì anh đã từng là ủy viên bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam phụ trách trưởng ban tuyên giáo…Xin nhắc lại một câu danh ngôn phương Tây : “ Quyền lực làm tha hóa con người”. Vâng, đã đi theo ma thì phải mặc áo giấy. Nếu Trần Mạnh Hảo hay nhà thơ Bùi Minh Quốc… do ma đưa lối qủy dẫn đường mà bỗng dưng vào được bộ chính trị đảng cộng sản, biết đâu ta lại chẳng sắt máu hơn anh Điềm hồi ấy…, biết đâu ta vẫn còn diện áo giấy để làm ma văn học ? Hãy để anh Điềm được quyền làm một nhà thơ công dân, được quyền mặc áo vải, được nói thật với trang giấy và độc giả bằng những vần thơ nhỏ máu…
Tôi bắt đầu yêu quý lại nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng bài thơ rất hay này của anh…

ĐẤT NƯỚC CÓ BAO GIỜ BUỒN THẾ NÀY CHĂNG ?

Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai ?
Không phải vầng trăng đất nước

Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi

Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ 

Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay

Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương

Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu

Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi ?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?

Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê hương

Sài gòn 24-4-2013
Tác giả gửi cho Quê Choa

 Trần Mạnh Hảo ngẫu hứng từ Nguyễn Khoa Điềm


(7) Thơ Lê Duy Phương
Điềm ơi !
Lê Duy Phương


Khi Điềm còn ở trên cao
Cái buồn thế sự đã vào chúng tôi
Bây giờ trời đã chiều rồi
Ngẫm ra thì muộn khóc cười làm chi
Phố phường vẫn lắm người đi
Hoa vẫn nở chẳng có gì khác đâu
Khác là ở chốn xa sâu
Trẻ em đi học không cầu qua sông
Khác là tận ngoài biển đông
Chủ quyền ta họ nói không lâp lờ
Riêng màu đỏ của ngọn cờ
Ở Đại Nội hay biển bờ xa xôi
Vẫn luôn phơi phới đỏ tươi
Nhạt là nhạt ở tình người Điềm ơi