Trả lời các cư dân mạng "bình loạn" về "Những phù thủy Văn nô" - Thái Doãn Hiểu
Thứ tư - 27/05/2015 01:48
TRẢ LỜI CÁC CƯ DÂN MẠNG CÓ THAM GIA “BÌNH
LOẠN” VỀ BÀI “NHỮNG PHÙ THỦY CỦA VĂN NÔ”.
THÁI DOÃN HIỂU
Thưa qúy ông qúy bà - một bộ phận ưu tú nhất của dân Quảng Nam hay cãi chày cãi cối..
Sự thật về Nhật ký Thùy Trâm đã được giải quyết khá rốt ráo khi quyển sách ra đời năm 2005. Hàng ngàn bài báo đã vào cuộc. Kẻ khen khen hết lời, người chê chê tới số. Tôi thấy người ta mở diễn đàn rất sôi động bàn về tính chân xác của Nhật ký ĐặngThùy Trâm. Và họ đã đi đến kết luận sau:
“Nhật Ký Đặng Thùy Trâm”: Sản phẩm dối trá, phản bội
Việc tìm ra thông tin này không khó trong thế giới bùng nổ thông tin qua internet. Khi viết công trình triết học Minh triết Thật - Giả, tôi TDH đã huy động đến khoảng 300 nghi án văn học, nghệ thuật, cuộc đời để làm điểm tựa cho cho việc tranh biện triết học. Đặng Thùy Trâm là một trong số nghi án nhỏ đó. Là người làm triết học, tôi không quan tâm tới đời tư của Đăng Thùy Trâm mà chỉ lưu ý đến tính thật giả của nhân vật này. Tôi nghĩ rằng mỗi dẫn luận đã được bạch hoá trên mạng hoàn cầu thì khi dẫn nó chỉ cần viết rất ngắn gọn, không cần đối chứng cà kê. để chiều lòng những bạn đọc có trình độ thấp và mù internet, kẻo không quyển sách sẽ đội lên hàng ngàn trang không tiện cho việc in ấn. Và tai họa đã đến. Vì quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng (khách hàng), tôi đã chỉ cho các vị món hàng trên tay mình là hàng giả. Thay vì phải xem xét thật giả ra sao thì các vị lại nông nổi gom đá hè nhau ném tới tất vào ân nhân của mình. Tôi bị quý ông quý bà ném đá kiểu trung cổ suốt 5 ngày đêm không ngớt. Chỉ khi một cư dân mạng Văn nghệ và Cuộc sống tên là Võ Sơn hạ câu
Võ Sơn - 10/05/2015 09:35
“Nếu họ chịu khó đọc bản gốc của 2 tập nhật ký thì chắc chắc sẽ thấy những gì ông TDH viết là chính xác 100% không sai tí nào cả.”
Võ Sơn - 10/05/2015 09:54
Gởi Ông Trần Thái Bình:
Nguyễn Văn Thạc bị chính quyền địa phương bắt vào bộ đội là đúng. Ông có thể kiểm chứng bằng cách:
1. Đọc cái wikipedia trích dẫn dưới đây (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Th%E1%BA%A1c )
2. Hoặc liên lạc và nói chuyện với gia đình Nguyễn Văn Thạc thì sẽ biết ngay.
Trích từ http://vi.wikipedia.org:
"... Năm lớp 10 (năm cuối bậc trung học phổ thông), ông đạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, năm học 1969-1970. Với thành tích đó ông được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện cử đi đào tạo tại Liên Xô. Tuy nhiên học lực và hạnh kiểm chỉ là hai trong nhiều tiêu chuẩn xét cử đi học nước ngoài thời đó. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa Toán – Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, ông vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3...."
"đều phải ở lại để tham gia quân đội" có nghĩa là bị bắt đi B.
Nguyễn Văn Thạc bị chính quyền địa phương bắt vào bộ đội là đúng. Ông có thể kiểm chứng bằng cách:
1. Đọc cái wikipedia trích dẫn dưới đây (http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Th%E1%BA%A1c )
2. Hoặc liên lạc và nói chuyện với gia đình Nguyễn Văn Thạc thì sẽ biết ngay.
Trích từ http://vi.wikipedia.org:
"... Năm lớp 10 (năm cuối bậc trung học phổ thông), ông đạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, năm học 1969-1970. Với thành tích đó ông được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện cử đi đào tạo tại Liên Xô. Tuy nhiên học lực và hạnh kiểm chỉ là hai trong nhiều tiêu chuẩn xét cử đi học nước ngoài thời đó. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa Toán – Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, ông vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3...."
"đều phải ở lại để tham gia quân đội" có nghĩa là bị bắt đi B.
Thế là tịt mít, im như thóc.Các quý ông quý bà mặt như quả bóng xì hơi then thùng tản mác mỗi người mỗi nơi hệt đám bèo bọt. Thật đáng thương cho một loại người mọi rỡ ngu trung cuồng tín biết một mà không biết mười. .
Có lẽ đến đây tôi không cần nói thêm một câu nào nữa. Xin cảm ơn ông Võ Sơn rất nhiều khi đã vô tư chiêu tuyết cho tôi. Thế là mỡ nó tự rán nó, không tốn một chút công sức nào cả. Nhưng biết đâu có kẻ vẫn ngoan cố không chịu thì làm sao ?. Thì tôi sẽ phải làm cho họ tâm phục khẩu phục mới thôi.
Trong kho tư liệu của tôi có hàng ngàn trang nghiên cúu về Nhật ký Đặng Thùy Trâm, tôi xin mạn phép dẫn ra đây vài chục trang của nhà nghiên cứu Thiên Đức bởi sự so sánh đối chứng tương đối kỹ càng với bản gốc và trên nền tảng tổng hợp khá khoa học và chặt chẽ những bài viết trên diễn đàn BBC, TALAWAS, ĐÀN CHIM VIỆT. Âu đó cũng là cách khai hóa hữu hiệu cho những kẻ đầu óc u mê, chậm hiểu
1.- NGUỒN:
Cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm của Nhà xuất bản hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có nhiều tranh cãi tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Đặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web: http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật ký bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm, em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang... Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sát nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]
.... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam ]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam ! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Đại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với em bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Đảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Đòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông kìn cựa để làm gì?]
05-4-70
[(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ Quảng Ngãi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt buộc. Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.
Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa chưa kể hết trong nhật ký này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”
Cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm của Nhà xuất bản hội nhà văn được độc giả trong và ngoài nước chú ý, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một điển hình anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có nhiều tranh cãi tính xác thật của nhật ký trên các diễn đàn BBC, Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi tìm nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Ký Đặng Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật ký Đặng Thùy Trâm bản gốc và bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web: http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đã có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Ký quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ý bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật ký bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả - chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm, em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đã tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ý nghĩ quá đỏ có thể không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đã cho thấy lời nói không đi đôi với việc làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật ký được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một đoạn ngắn, nhật ký có được 276 đoạn. Nhật ký bản gốc được trình bày theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang... Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lý, Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn. In 20.000 cuốn, Số đăng ký..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu quý IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc, người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả vì rằng trong cuốn sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rõ mà không chịu sửa chữa vì với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật ký đã bị đổi thay hay sát nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là 11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm 11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70 và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật, người viết tìm thấy có đến 21 đoạn nhật ký bị cắt xén, ảnh hưởng đến nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo dòng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là của những người còn mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu vì sự nghiệp chung. Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long thì đúng như vậy. [(bg) Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh mình thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó đã thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày hòa bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước.]
.... Vậy đó, cả nước đã lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn mình trong cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp dòng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg) Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg) Con đường em đi những bước đi còn chập chững nhưng chông gai gian khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm ơi, anh đi bình an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và tình thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi bình an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đã chất đầy như núi. Còn sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... Tình thương của mình bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng. [(bg) Tuy nhiên lúc em ra về mình cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố gắng tập cho cánh tay mau bình phục rồi nhìn em bằng đôi mắt trìu mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết điểm. Mình không hề sợ khuyết điểm, cái gì sai thì cố gắng khắc phục, cái gì đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không độc đoán quan liêu, không vì sợ mất lòng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi làm một việc gì phải cân nhắc kỹ không hướng mình đang đứng trong vai trò của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả đang nhìn, mình làm được điều đó là dĩ nhiên vì mình là một diễn viên, họ chỉ khen khi nào mình thật xuất sắc (mà điều đó thì mình chưa thể làm được). Nếu mình làm còn thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều, vậy mà cũng đòi làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ vì sự nghiệp của cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng chỉ vì Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự vì được tin cậy nhưng không vì vậy mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị nhiều lý luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3 năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đã trải qua 10 năm, 20 năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hãy đến với tôi bằng tình thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự do, bằng tình thương của những kẽ xa nhà lấy gia đình cách mạng làm chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hãy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết tôi phải làm gì, tự biết năng lực của mình và tự nhủ mình phải khiêm tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của mình đó. [(bg) Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người con gái XHCN trên đất miền Nam ]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu. [(bg) Em ơi, hãy bồi đắp cho tình cảm chị em mãi mãi thắm thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt đẹp của mối tình cảm ấy vì không biết giữ gìn, lỗi đó ở em hay ở mình.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở anh? Tại sao nỗi lo cho mình trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam ! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử mà cũng còn nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xã hội, cũng dễ hiểu thôi, vì tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn diện, biết sống vì mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xã hội ngày một mở rộng đối với mình. Đại hội phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng mình không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có những điều kiện chưa hợp lý. Một lần nữa mình hiểu thêm về lòng ghen tỵ của người đời, vẫn còn những người không vui khi thấy đồng chí mình tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong tình chị em, trong đời người. Hãy nhớ trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em mình đều bước đi những bước trưởng thành và tình chị em cũng đã lớn lên dày dạn với thời gian. Vũng vàng trước sóng gió. Hãy vun xới cho tình cảm ấy lớn lên và lớn mãi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể mình” Không, thực tế thì có vậy nhưng em thì không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái gì làm mình cảm thấy quên đi những ngày gian khổ đang đe dọa bên mình. Có phải vì bàn tay ấm áp của anh đã nắm chặt tay mình truyền cho mình sức mạnh để đánh bạt mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đã vuốt trên mái tóc mình thân thiết truyền cho mình tình thương ruột thịt làm mình quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi mắt đen anh đã nhìn mình qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn ngủi giữa mọi người đã nói với mình rằng: “Hãy vững bước nghe em, trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đã chọn, bao giờ cũng có các anh giúp đỡ em với tình đồng chí và có anh dìu dắt em trong cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đã đến với em bằng tình thương chân thành ruột thịt, anh đã là một chỗ dưa trong cuộc sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa lòng tất cả được, cũng như anh đã nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của mình”. Như bao lần em đã nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết tình thương và cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của mình. Anh Năm thân thương, anh tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy tình anh em ngày thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm chủ cuộc sống của mình. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian khổ, luôn có anh dìu dắt, anh lo cho em từng ly từng tý, anh dạy bảo em với tình một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công tác Đảng, anh săn sóc em với tình đồng đội cùng chung trong cuộc chiến đấu sinh tử này. Hãy giữ tròn mãi mãi “...trong ngần thiết tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng, anh Năm ạ. Quả thực anh đã lo, đã thương em với tình thương sắt son ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ trọn tình anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin bản thân mình nhưng ngay cả bản thân mình em cũng nhiều lúc không hiểu rằng xử trí như vậy đã đúng chưa. Vì vậy anh đừng trách khi em giận anh. Thực ra cũng có một tình thương sâu đậm nên em mới cảm thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy hết sức bình thường với những người khác nhưng với em lại là khác, em đòi hỏi ở anh một sự quan tâm, đòi hỏi ở anh những biểu hiện của một tình thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa em gái cưng của anh. Đòi hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đã dành tất cả tình thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Thì như vậy đâu phải là cao. Vậy đó anh à, hãy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt tình, đầy ưu ái, niềm tin ở cuộc đời. Em còn dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người dìu dắt em đi vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh quang mà anh em mình đã chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây giờ Th. đã là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người không hiểu Th? Mà hãy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu mình? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không thể nói được. Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya nằm bên những người đồng đội, họ đã ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông kìn cựa để làm gì?]
05-4-70
[(bg) Có phải mình cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp mà sao mình lại làm một con bé sống với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như vậy. Nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được những tình cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của em ơi, có đúng như lời anh đã nói đó không? “Tình anh em ta sẽ tồn tại mãi mãi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như lời em đã hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không tìm hiểu tác giả là một điều thiếu sót không thể tha thứ được cho dù người đó đã nằm xuống. Trong bản gốc của nhật ký không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của gia đình và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ Quảng Ngãi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đã đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)vì vậy người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là 10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TRÌNH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt buộc. Ngoài ra còn phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào tạo 3 năm chuyên môn, với trình độ trung học, tổng cọng thời gian học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3 năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học trình để kết luận, thì người bác sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có trình độ tương đương với một người cán sự y tế trung bình mà thôi, không thể so sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với trình độ chuyên môn như trên, tốt nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động chuyên môn của mình. Sau đây là những thành tích của một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ còn vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng, anh còn cười để động viên mình, nhìn nụ cười gượng trên môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thể yên lòng, vuốt nhẹ mái tóc anh mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả cũng còn nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng, sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đã kết quả. Thận dập nát đã được may lại, máu ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu dòng máu đã chảy và đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66 tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã 23 năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình dù tập thể và chính bản thân con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa nhưng mình vẫn xót xa.
Vì sao ông ta chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên cắt cụt nhưng mình vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng cancer đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im lìm không rên la, một chân đã bị mìn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi máu em đã thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu đến có lẽ vì một sự chảy máu trong do miến mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đã chết. Cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu cương quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng cứu sống anh có thể có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền quyết định về chuyên môn bằng lãnh đạo quần chúng? Giá trị của lãnh đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng còn nhiều nữa chưa kể hết trong nhật ký này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với tình thương mà mọi người đã giành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong toàn tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người xuất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó có mình một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Thùy Trâm đã được mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức toàn diện...”
Không biết bao nhiêu lần mình tự hỏi phải làm gì đây để xứng đáng với lòng tin của mọi người.
Đây là niềm hãnh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)
Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hãy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hãy nghe DTT tự thú trong nhật ký:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên y khoa dù DTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có giữa M. và DTT biết rất rõ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. DTT đã chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ĐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình DTT để tính đến chuyện xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật ký:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải DTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
DTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.
Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình DTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi DTT một mình, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao DTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm gì?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và DTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi cả. Lời DTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình DTT). Đây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình DTT là súng SKS và ông đã giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác DTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của DTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Đặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật ký mà DTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:
-KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Đôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.
Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của DTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
Đây là niềm hãnh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn diện(?)
Với thành tích trên đã khơi động sự tò mò của người viết phải đi tìm lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đình không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng Ngãi mà Thùy còn gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ gìn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày còn nhỏ. Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé, chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay trong vườn thuốc, trò chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây đố lá”, lá này của cây gì, dùng để làm gì. Không biết thì về hỏi mẹ. Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy vẫn đến bệnh viện của cha để theo dõi cha mổ, để học thêm những kinh nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh mà dạy con vẽ người trên các bức hình giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm, Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy, cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy mãi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hãnh diện ghi vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật ký (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ... Chúng tôi đã hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xã hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đình tại sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đình không có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, hình ảnh lễ mãn khóa, tiệc mừng gia đình lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đình vẫn còn giữ hình ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu. Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ mãn khóa ra trường, không có đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đình lưu giữ (?)Chỉ có một câu trả lời hợp lý là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT đã khai man lý lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hãy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy (nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh viên ra trường sớm hơn học trình đào tạo chỉ rơi vào những trường hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc thì sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hãy nghe DTT tự thú trong nhật ký:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rồi trả lại anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm việc gì mà không có ý nghĩ. M. lại càng không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên y khoa dù DTT đã làm việc với chức danh bác sĩ đã 3 năm qua, đây là điều nghịch lý trong nhật ký. Chỉ có thể lý giải một điều bí mật chỉ có giữa M. và DTT biết rất rõ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và mãi mãi vẫn là một sinh viên y khoa trong lòng M. DTT đã chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KÝ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lý biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc nhật ký.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KÝ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật ký của ĐTT, và ông đã có ý định tìm lại gia đình DTT để tính đến chuyện xuất bản tập nhật ký trên, phần sau là một trong những thư trao đổi đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đình DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đã được chỉnh lý sửa đổi. Người biên tập đã ngang nhiên sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ý của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin: đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đình không tin câu chuyện kể của mình , nên ông Fred đã cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi. Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng mình để giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ hiểu bất cứ điều gì do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ tìm cách sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác tìm cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa mãn. Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở một phòng thí nghiệm về các tội phạm hình sự của FBI, Washington D.C. Chính ở đó tôi đã trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc tế. Các bạn thử gõ tên tôi trên Internet và xem người ta đã viết những gì. Cuối cùng tôi đã kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm, quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi còn sống và là một kho báu đối với gia đình tôi cũng như đối với tôi.Vì tôi có học luật trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật. ... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như trên thì tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố tình không muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố tình tin là sự thật(?)để tạo dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM thì người viết đành phải đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu trữ nhật ký này bởi những nghịch lý sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính Mỹ và VNCH được tổ chức theo lý thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên cuộc chiến đã hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều. Còn những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC không còn được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa vì hỏa lực yếu, tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị phòng thủ cơ sở, hay nhát ma mà thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy trốn làm gì có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. Vì chỉ cần nổ phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội hình hành quân căn bản ở quân trường đã dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa, để tránh nhiều thương vong thì khi hành quân thường dùng đội hình quả trám hay đội hình hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đã chết bởi hỏa lực yếu kém của mình, đâu còn thời gian chờ 120 lính Mỹ đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào mình tại sao không bắn trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lý.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hãy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật ký:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên chưa nói dứt lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường gần 3 năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn yên tâm vì đã có người bảo vệ mình chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ, địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một mình chiến đấu như là anh hùng, có phải DTT đã tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật ký DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tĩnh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm - một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý - con bé học sinh - lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng trí Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.
DTT đã bị bỏ rơi một mình với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán bộ vẫn chưa về.
Hãy đọc tiếp trang nhật ký cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần 10 ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đã chỉ điểm nay. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đầu óc mình và những người ở lại. Vì sao? lý do vì sao mà không trở lại. Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo, đường đi trăm nghìn nguy hiểm còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người nếu có tình huống gì xẩy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay lam sao cho kịp, chăng nilon trước thì sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai người chị quần xắn tròn trên vế, lăn lội qua dòng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc thương binh, và đã từng bị bỏ rơi một mình khi có tình huống địch càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận thì làm gì có chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như hình ảnh những cán binh mặt còn búng ra sửa, không biết lý do vì sao mà phải đi chiến đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn vì số lùi đã bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một mình chỉ là trường hợp vắt chanh bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả tình huống trong lá thư ngày 17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi tìm lương thực, chỉ còn lại một mình DTT và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với tình huống hiện trường như trên, thì một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường mà còn khả năng chạy tạo nên tiếng chân thình thịch cho lính Mỹ nghe thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần thì đã bị bắt vì chạy chậm hoặc đã chết vì nằm trong tầm hỏa lực của súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đã trở về, nhưng trước tình huống địch tới đã bỏ chạy, bỏ rơi DTT một mình, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đã trở về cứu 5 thương binh, thì tại sao DTT lại không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của mình. Tất cả đi hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm gì?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lý. Và DTT đã nghi ngờ trong nhật ký là hợp lý theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu vì thực tế trong tình hình nóng bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi cả. Lời DTT đã nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng, không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia đình DTT). Đây là một điều nghịch lý vì với một người chiến đấu trên mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đã từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rõ chỉ cần một tiểu đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi. Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên mình DTT là súng SKS và ông đã giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng gì thì cũng không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đã xác quyết rằng trên xác DTT có cây súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập đã sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này. Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đã kể ra trong thư với gia đình DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rõ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu, và sau khi đã tìm kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu thì Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật ký của chị các bạn và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đã ngồi bên nhau và bắt đầu dịch cuốn nhật ký.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật ký qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số tài liệu với Hiếu thì anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là cuốn nhật ký thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật ký của DTT có lửa? Trong khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn, số còn lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đã đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật ký có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ý, mà phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật ký (1970) là của Đặng Thùy Trâm trong khi trên bản nhật ký này ở trang đầu trang cuối không có ghi tên họ người viết nhật ký?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật ký thứ hai (1968-1969)? Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật ký này trong tay Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật ký mà DTT đã bị ăn cướp theo như đã ghi trong nhật ký ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật ký có lửa. Như vậy là cuốn nhật ký 68-69 đã lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật ký thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được ? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra vì sau 18 tháng tập sách phơi mưa nắng ở khó có thể còn nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể tình cờ may mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật ký này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu thì với thời gian này đã bị xử lý hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đã tịch thu từ lâu mà Hiếu đã ém lại để 18 tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lý.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy chỉ còn duy nhất kịch bản sau đây là hợp với tình huống trên mà thôi:
-KB.4: Cuốn nhật ký thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết. Hành động này nằm trong kế hoạch đã được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành trình đi tìm Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đã tiết lộ một tình tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi Đôi: Khi cuốn nhật ký lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đã đánh liều giữ lại nó cho mình trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông không còn giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật ký đã chép tặng chị.
Tại sao trong nhật ký không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi? Một sự kiện quan trọng trong đời sống tình cảm của DTT. Trong nhật ký ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài “Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở gì đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rõ tên Minh người yêu của Thùy Trâm là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật ký?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hi sinh chị còn hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết? Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán thì có còn thở được không chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
5.1.- NÉT BÚT:
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N, phong cách viết, người viết tìm thấy có sáu nét chữ khác biệt trong nhật ký như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên đầu, có chữ ký cũng khác biệt chữ ký của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt chước theo nhưng vẫn thấy rõ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ hình bìa trang đầu quyển 2. Chữ T hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên. Nét chữ còn vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Ký
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật ký.
5.1.7.- DTT: Tác giả đã viết nội dung chính của nhật ký và câu đầu tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật ký
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ ký hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, còn lại 3 nét chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đã 7 lần viết vào nhật ký DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi tìm dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ ký ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể ký sau ngày này khi trang nhật ký đã được viết.
•Những dòng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau ngày kết thúc nhật ký 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị mất nhật ký) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Dòng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật ký ngày 30-6-1968. Vậy ai đã sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi nhật ký.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật ký 15.01.70
•Dòng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1 quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đã 4 lần viết vào nhật ký, với nội dung vay mượn của Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6). Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác trình độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật ký luôn luôn ở bên mình DTT từ ngày viết cho đến khi chết thế mà đã có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đã chết thì người thứ hai là lính Mỹ hay Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). Vì nét chữ địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả thiết này không vững.
-Người thứ hai đã viết vào nhật ký lúc DTT còn sống, và biết rõ lý lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc nhật ký, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật ký lại chừa 7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều bất thường trong tình hình khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh. Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật ký, không đóng vai trò quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một. Họ là ai mà có thể ghi vào nhật ký?
Như vậy chỉ có người thứ hai đã nhiều lần đọc nhật ký DTT, nhiều lần ghi chép vào nhật ký, thậm chí lại còn biết rõ tên cha mẹ, địa chỉ của từng người để viết vào nhật ký. Trong thời gian này DTT không có người yêu, cũng không có người thân gia đình. Thì chỉ có thể kết luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này đã cho lệnh DTT viết nhật ký với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật ký là đánh dấu một lần kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích viết nhật ký (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật ký), dưới sự giám sát theo dõi của Đảng. Sự kiện viết nhật ký này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết thì đem nhật ký này về động viên gia đình . 3- Nếu nhật ký có giá trị tuyên truyền phản chiến thì được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đã cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu cuộc chiến.
Nhật ký DTT đã từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị (Đảng) đã đánh cắp nhật ký DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền. Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi làm việc cha mẹ DTT vào nhật ký trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được cuốn nhật ký này? Trước đó Hiếu đã từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai là nhật ký có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật ký của DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật ký DTT.
Ở đây còn có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú của gia đình DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc của họ? Theo lời khai của gia đình Cha DTT tiểu tư sản lý lịch không rõ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp. Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lý lịch không rõ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn đề). Vì thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật ký đã được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT có sơ hở gì sau khi nhật ký DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KÝ LÀ GÌ?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng, thế nhưng đối với DTT nhật ký lại mang ý nghĩa khác. Và sau đây có thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn Bình “Đọc Nhật ký DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật ký đề ngày 14.8.68 DTT viết “ Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị giết. DTT đã mô tả rất rõ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp thì mình mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác kể lại! Vậy ai đã khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí” của mình bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. Vì chỉ có DTT thì mới có thể nhìn và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N, phong cách viết, người viết tìm thấy có sáu nét chữ khác biệt trong nhật ký như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên đầu, có chữ ký cũng khác biệt chữ ký của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt chước theo nhưng vẫn thấy rõ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ hình bìa trang đầu quyển 2. Chữ T hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên. Nét chữ còn vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Ký
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật ký.
5.1.7.- DTT: Tác giả đã viết nội dung chính của nhật ký và câu đầu tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật ký
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ ký hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, còn lại 3 nét chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đã 7 lần viết vào nhật ký DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi tìm dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ ký ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể ký sau ngày này khi trang nhật ký đã được viết.
•Những dòng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau ngày kết thúc nhật ký 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị mất nhật ký) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Dòng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật ký ngày 30-6-1968. Vậy ai đã sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi nhật ký.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật ký 15.01.70
•Dòng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1 quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đã 4 lần viết vào nhật ký, với nội dung vay mượn của Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6). Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác trình độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật ký luôn luôn ở bên mình DTT từ ngày viết cho đến khi chết thế mà đã có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đã chết thì người thứ hai là lính Mỹ hay Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). Vì nét chữ địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả thiết này không vững.
-Người thứ hai đã viết vào nhật ký lúc DTT còn sống, và biết rõ lý lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc nhật ký, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật ký lại chừa 7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều bất thường trong tình hình khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh. Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật ký, không đóng vai trò quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một. Họ là ai mà có thể ghi vào nhật ký?
Như vậy chỉ có người thứ hai đã nhiều lần đọc nhật ký DTT, nhiều lần ghi chép vào nhật ký, thậm chí lại còn biết rõ tên cha mẹ, địa chỉ của từng người để viết vào nhật ký. Trong thời gian này DTT không có người yêu, cũng không có người thân gia đình. Thì chỉ có thể kết luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này đã cho lệnh DTT viết nhật ký với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật ký là đánh dấu một lần kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích viết nhật ký (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật ký), dưới sự giám sát theo dõi của Đảng. Sự kiện viết nhật ký này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết thì đem nhật ký này về động viên gia đình . 3- Nếu nhật ký có giá trị tuyên truyền phản chiến thì được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đã cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu cuộc chiến.
Nhật ký DTT đã từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị (Đảng) đã đánh cắp nhật ký DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền. Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi làm việc cha mẹ DTT vào nhật ký trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được cuốn nhật ký này? Trước đó Hiếu đã từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai là nhật ký có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật ký của DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật ký DTT.
Ở đây còn có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú của gia đình DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc của họ? Theo lời khai của gia đình Cha DTT tiểu tư sản lý lịch không rõ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp. Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lý lịch không rõ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn đề). Vì thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật ký đã được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT có sơ hở gì sau khi nhật ký DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KÝ LÀ GÌ?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể tìm thấy câu trả lời dễ dàng, thế nhưng đối với DTT nhật ký lại mang ý nghĩa khác. Và sau đây có thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn Bình “Đọc Nhật ký DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật ký đề ngày 14.8.68 DTT viết “ Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị giết. DTT đã mô tả rất rõ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp thì mình mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác kể lại! Vậy ai đã khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí” của mình bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. Vì chỉ có DTT thì mới có thể nhìn và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy
Nguyễn Trung Thực - 03/06/2015 02:35
Chị Đặng Thùy Trâm đã hy sinh. Xin để chị được yên. Tôi cho rằng ai đó dù hữu ý hay vô tình xúc phạm đến linh hồn của chị đều là sự nhẫn tâm. Tôi góp một vài ý với ông Thái Doãn Hiểu nào đó như sau:
1. Không nên tùy tiện suy luận rằng chị Trâm chưa từng là bác sĩ vì mới học hết 5 năm trong trường Đại học Y khoa. Không có bằng, làm sao hành nghề được? Ai cũng biết rằng vì lý do thời chiến, nhiều trường học đã thực hiện chế độ cấp bằng đặc cách cho sinh viên để kịp ra chiến trường phục vụ. Nhiều nhà trường trong quân đội còn chủ động tinh giản chương trình, rút ngắn thời gian đào tạo nữa. Cũng như các trường khác, sinh viên năm cuối trường y khoa có số giờ lên lớp học lý thuyết không nhiều mà dành nhiều thời gian cho thực tập cuối khóa và ôn thi tốt nghiệp. Chị Trâm “khai man” là bác sĩ, không phải vì thăng quan tiến chức hay bổng lộc gì mà vì được đi chiến trường ư? Nhân đây, cũng xin bàn luận một chuyện khác, trong thời chiến, có những trường hợp thanh niên khai tăng tuổi để đủ tuổi nhập ngũ, họ cũng là người “khai man” à?
Trong chiến tranh, tôi làm công tác quân y tại chiến trường Nam Bộ. Đơn vị tôi cũng có một số anh em sinh viên y khoa học hết năm thứ 5 được điều vào quân đội, được đặc cách cấp bằng bác sĩ, phong quân hàm thiếu úy và những anh em này làm tốt công tác, cứu chữa được rất nhiều thương bệnh binh đấy ông Hiểu ạ!
Ông Hiểu đã không suy nghĩ khi liên hệ với tình hình ở Miền Nam, chỉ có những sinh viên học dốt hay vi phạm kỷ luật, phải sa thải mới ra trường sớm hơn so với thời gian quy định. Mà đã học dốt hay bị kỷ luật thì làm sao cấp bằng và ra trường làm việc được? Trường hợp ra trường sớm và được cấp bằng của chị Trâm sao ông Hiểu cố tình không nhận ra hay trình độ nhận thức của ông ta chỉ có thế?
2. Ông Hiểu nói, các trường đại học ở Miền Bắc thời ấy dành đến 1/3 thời gian cho các môn học Mác - Lênin là không đúng đâu. Đừng xuyên tạc sự thật. Tôi cũng từng học qua đại học thấy rõ ràng không phải như vậy.
3. Ông Hiểu lại tùy tiện so sánh trình độ một bác sĩ được đào tạo chính quy ở Miền Bắc chỉ tương đương với một cán sự y tế trung cấp ở Miền Nam. Ông ta không biết rằng, ngay bây giờ, rất nhiều nước vẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm, đào tạo bác sĩ đa khoa 6 năm… Ở nước ta, học Đại học y khoa 6 năm cũng là thời gian dài nhất so với các trường đại học khác, không có trường đại học nào sánh bằng. Ngay đầu vào làm một sinh viên y khoa, điểm thi đại học cũng không ít. Ông không biết thì thôi chứ đừng phát ngôn liều, xúc phạm đến cả một thế hệ cán bộ y tế trình độ đại học, có rất nhiều cống hiến trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, cứu chữa thương bệnh binh ở chiến trường!
4. Ông Hiểu không “hiểu” về chuyên môn y dược và lại càng không biết đến thực tế chiến trường về công tác cứu chữa thương bệnh binh. Việc xác định nguyên nhân tử vong không dễ dàng như ông tưởng nên ông vội vàng kết tội chị Trâm trong khoảng một năm đã làm chết 5 thương bệnh binh do trình độ chuyên môn yếu kém và do tác phong, lề lối công tác của mình. Thật là quá đáng!
5. Ông Hiểu còn liều mạng viết “ĐTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên phẫu thuật đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lăng băm”. Đọc nhật ký Đặng Thùy Trâm, ai cũng hình dung ra công việc chuyên môn của chị ở chiến trường đâu phải như vậy! Ông Hiểu cũng nên biết rằng với tầm cỡ một bệnh xá, lại ở trong thời chiến, làm gì có các bác sĩ chuyên khoa… Bệnh nhân không phải lúc nào cũng dễ dàng chuyển lên tuyến trên và ở chiến trường, chuyên khoa nào cũng có. Thiếu cán bộ chuyên môn, thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị y tế là chuyện phổ biến. Ở chiến trường, có cả trường hợp y sĩ cũng phải làm công tác phẫu thuật, không phải vì họ thích “làm liều” mà yêu cầu của nhiệm vụ bắt buộc họ phải làm, trong phạm vi được phép.
6. Cũng vì không biết nên ông Hiểu nói bừa rằng thực tế chiến trường Việt Nam không có súng SKS mà chỉ có súng CKC. CKC chính là SKS đấy ông Hiểu ạ! Nguyên do là khẩu súng trường bán tự động này có nguồn gốc từ Nga, mà 3 chữ cái Nga, thuộc ngôn ngữ Slavơ CKC tương tự như SKS trong ngôn ngữ Latinh. Những hàng hóa sản xuất từ Liên Xô trước kia ghi tắt bằng chữ Nga CCCP (Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết), người Nga đọc là SSSR, chứ không đọc là “xê, xê, xê, pê” đâu.
7. Ông Hiểu mỉa mai hai chữ “trí thức” khi nói về chị Trâm. Tôi không rõ sự hiểu biết và nhân cách của ông ta ở mức độ nào nữa. Đặng Thùy Trâm sinh ra trong một gia đình trí thức thực thụ, có cha là bác sĩ ngoại khoa, mẹ là dược sĩ giảng viên đại học, mấy chị em đều tốt nghiệp đại học, bản thân chị Trâm là bác sĩ. Bác sĩ, tốt nghiệp đại học không được coi là trí thức ư? Nếu thế thì ngay bản thân ông Hiểu tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội vào những năm 70 của thế kỷ trước cũng không được gọi là trí thức.
(Còn nhiều nội dung nữa nhưng thiết nghĩ viết thế là đủ, xin dừng ở đây)
Đất nước có chiến tranh khốc liệt, lớp lớp thanh niên lên đường, rất nhiều người không trở về. Tuy vậy cũng vẫn có những người sức dài vai rộng nhưng trốn tránh trách nhiệm. Chị Trâm là phụ nữ đã tự nguyện xung phong ra mặt trận, chịu đựng muôn vàn gian khổ, khắc phụ khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, cứu chữa nhiều bệnh nhân và thương bệnh binh. Chị đã hy sinh tại chiến trường, đáng trân trọng lắm chứ! Ngay ở Mỹ, người ta cũng đã lưu giữ cẩn thận hai cuốn nhật ký của chị tại Trung tâm Việt Nam ở Texas cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên. “Cuốn nhật ký được xếp vào loại sách quí hiếm được áp dụng chế độ bảo vệ đặc biệt” – Giáo sư Jim Reckner, giám đốc Trung tâm nói. Thế mà hiện nay, ngay trên quê hương Việt Nam của chị, lại có kẻ có dã tâm mang chị ra làm đối tượng đả kích. Thật là hành động vô liêm sỉ, đáng xấu hổ!
Ông Hiểu chỉ biết phê phán người ta và có những câu ăn nói hồ đồ. Ông ta có quyền gì mà “trả lời” người khác bằng ý kiến của riêng mình, được xem như những kết luận, đúng sự thật? Tôi cũng có quyền phê phán ông ta chứ! Mong các vị thông cảm.
Nguyễn Trung Thực (Thượng tá Quân y CCB)
1. Không nên tùy tiện suy luận rằng chị Trâm chưa từng là bác sĩ vì mới học hết 5 năm trong trường Đại học Y khoa. Không có bằng, làm sao hành nghề được? Ai cũng biết rằng vì lý do thời chiến, nhiều trường học đã thực hiện chế độ cấp bằng đặc cách cho sinh viên để kịp ra chiến trường phục vụ. Nhiều nhà trường trong quân đội còn chủ động tinh giản chương trình, rút ngắn thời gian đào tạo nữa. Cũng như các trường khác, sinh viên năm cuối trường y khoa có số giờ lên lớp học lý thuyết không nhiều mà dành nhiều thời gian cho thực tập cuối khóa và ôn thi tốt nghiệp. Chị Trâm “khai man” là bác sĩ, không phải vì thăng quan tiến chức hay bổng lộc gì mà vì được đi chiến trường ư? Nhân đây, cũng xin bàn luận một chuyện khác, trong thời chiến, có những trường hợp thanh niên khai tăng tuổi để đủ tuổi nhập ngũ, họ cũng là người “khai man” à?
Trong chiến tranh, tôi làm công tác quân y tại chiến trường Nam Bộ. Đơn vị tôi cũng có một số anh em sinh viên y khoa học hết năm thứ 5 được điều vào quân đội, được đặc cách cấp bằng bác sĩ, phong quân hàm thiếu úy và những anh em này làm tốt công tác, cứu chữa được rất nhiều thương bệnh binh đấy ông Hiểu ạ!
Ông Hiểu đã không suy nghĩ khi liên hệ với tình hình ở Miền Nam, chỉ có những sinh viên học dốt hay vi phạm kỷ luật, phải sa thải mới ra trường sớm hơn so với thời gian quy định. Mà đã học dốt hay bị kỷ luật thì làm sao cấp bằng và ra trường làm việc được? Trường hợp ra trường sớm và được cấp bằng của chị Trâm sao ông Hiểu cố tình không nhận ra hay trình độ nhận thức của ông ta chỉ có thế?
2. Ông Hiểu nói, các trường đại học ở Miền Bắc thời ấy dành đến 1/3 thời gian cho các môn học Mác - Lênin là không đúng đâu. Đừng xuyên tạc sự thật. Tôi cũng từng học qua đại học thấy rõ ràng không phải như vậy.
3. Ông Hiểu lại tùy tiện so sánh trình độ một bác sĩ được đào tạo chính quy ở Miền Bắc chỉ tương đương với một cán sự y tế trung cấp ở Miền Nam. Ông ta không biết rằng, ngay bây giờ, rất nhiều nước vẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 10 năm, đào tạo bác sĩ đa khoa 6 năm… Ở nước ta, học Đại học y khoa 6 năm cũng là thời gian dài nhất so với các trường đại học khác, không có trường đại học nào sánh bằng. Ngay đầu vào làm một sinh viên y khoa, điểm thi đại học cũng không ít. Ông không biết thì thôi chứ đừng phát ngôn liều, xúc phạm đến cả một thế hệ cán bộ y tế trình độ đại học, có rất nhiều cống hiến trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, cứu chữa thương bệnh binh ở chiến trường!
4. Ông Hiểu không “hiểu” về chuyên môn y dược và lại càng không biết đến thực tế chiến trường về công tác cứu chữa thương bệnh binh. Việc xác định nguyên nhân tử vong không dễ dàng như ông tưởng nên ông vội vàng kết tội chị Trâm trong khoảng một năm đã làm chết 5 thương bệnh binh do trình độ chuyên môn yếu kém và do tác phong, lề lối công tác của mình. Thật là quá đáng!
5. Ông Hiểu còn liều mạng viết “ĐTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên phẫu thuật đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn, chẳng khác gì các thầy thuốc lăng băm”. Đọc nhật ký Đặng Thùy Trâm, ai cũng hình dung ra công việc chuyên môn của chị ở chiến trường đâu phải như vậy! Ông Hiểu cũng nên biết rằng với tầm cỡ một bệnh xá, lại ở trong thời chiến, làm gì có các bác sĩ chuyên khoa… Bệnh nhân không phải lúc nào cũng dễ dàng chuyển lên tuyến trên và ở chiến trường, chuyên khoa nào cũng có. Thiếu cán bộ chuyên môn, thiếu thuốc, thiếu trang thiết bị y tế là chuyện phổ biến. Ở chiến trường, có cả trường hợp y sĩ cũng phải làm công tác phẫu thuật, không phải vì họ thích “làm liều” mà yêu cầu của nhiệm vụ bắt buộc họ phải làm, trong phạm vi được phép.
6. Cũng vì không biết nên ông Hiểu nói bừa rằng thực tế chiến trường Việt Nam không có súng SKS mà chỉ có súng CKC. CKC chính là SKS đấy ông Hiểu ạ! Nguyên do là khẩu súng trường bán tự động này có nguồn gốc từ Nga, mà 3 chữ cái Nga, thuộc ngôn ngữ Slavơ CKC tương tự như SKS trong ngôn ngữ Latinh. Những hàng hóa sản xuất từ Liên Xô trước kia ghi tắt bằng chữ Nga CCCP (Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết), người Nga đọc là SSSR, chứ không đọc là “xê, xê, xê, pê” đâu.
7. Ông Hiểu mỉa mai hai chữ “trí thức” khi nói về chị Trâm. Tôi không rõ sự hiểu biết và nhân cách của ông ta ở mức độ nào nữa. Đặng Thùy Trâm sinh ra trong một gia đình trí thức thực thụ, có cha là bác sĩ ngoại khoa, mẹ là dược sĩ giảng viên đại học, mấy chị em đều tốt nghiệp đại học, bản thân chị Trâm là bác sĩ. Bác sĩ, tốt nghiệp đại học không được coi là trí thức ư? Nếu thế thì ngay bản thân ông Hiểu tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội vào những năm 70 của thế kỷ trước cũng không được gọi là trí thức.
(Còn nhiều nội dung nữa nhưng thiết nghĩ viết thế là đủ, xin dừng ở đây)
Đất nước có chiến tranh khốc liệt, lớp lớp thanh niên lên đường, rất nhiều người không trở về. Tuy vậy cũng vẫn có những người sức dài vai rộng nhưng trốn tránh trách nhiệm. Chị Trâm là phụ nữ đã tự nguyện xung phong ra mặt trận, chịu đựng muôn vàn gian khổ, khắc phụ khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ, cứu chữa nhiều bệnh nhân và thương bệnh binh. Chị đã hy sinh tại chiến trường, đáng trân trọng lắm chứ! Ngay ở Mỹ, người ta cũng đã lưu giữ cẩn thận hai cuốn nhật ký của chị tại Trung tâm Việt Nam ở Texas cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên. “Cuốn nhật ký được xếp vào loại sách quí hiếm được áp dụng chế độ bảo vệ đặc biệt” – Giáo sư Jim Reckner, giám đốc Trung tâm nói. Thế mà hiện nay, ngay trên quê hương Việt Nam của chị, lại có kẻ có dã tâm mang chị ra làm đối tượng đả kích. Thật là hành động vô liêm sỉ, đáng xấu hổ!
Ông Hiểu chỉ biết phê phán người ta và có những câu ăn nói hồ đồ. Ông ta có quyền gì mà “trả lời” người khác bằng ý kiến của riêng mình, được xem như những kết luận, đúng sự thật? Tôi cũng có quyền phê phán ông ta chứ! Mong các vị thông cảm.
Nguyễn Trung Thực (Thượng tá Quân y CCB)
Thành Lê - 03/06/2015 01:24
Thạt tình tôi không có thì giờ đọc nhứng dẫn chứng dài dòng làm gì, chỉ thấy nổi lên vấn đề là:
1. Cả 2 liệt sĩ đều hy sinh anh dũng khi tuổi đời cỏn rất trẻ, họ viết nhật ký ngay ở chiến trường.
2. Tất cả những điều nghi vấn gì đều mờ nhạt đi trước sự hy sinh của họ
Nghĩa tử nghĩa tận, tại sao TDH lại điên rồ moi móc để bêu xáu người đã khuât? TDH vừa thất đức vùa bât lương. tôi tin rằng TDH sẽ bị quả báo nếu không xóa đi trang viết này và xin lỗi 2 gia đình LS.
1. Cả 2 liệt sĩ đều hy sinh anh dũng khi tuổi đời cỏn rất trẻ, họ viết nhật ký ngay ở chiến trường.
2. Tất cả những điều nghi vấn gì đều mờ nhạt đi trước sự hy sinh của họ
Nghĩa tử nghĩa tận, tại sao TDH lại điên rồ moi móc để bêu xáu người đã khuât? TDH vừa thất đức vùa bât lương. tôi tin rằng TDH sẽ bị quả báo nếu không xóa đi trang viết này và xin lỗi 2 gia đình LS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét