Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

Bao giờ?

bao giờ? (hai bài)

Thứ hai - 27/07/2015 11:43
Đỗ Hoàng


BAO GIỜ?

(Hai bài)
(I)

Bao giờ Tấy nhuộn tóc chồn đen
Nước Vạc đan nghèo nhất tóp ten
Trầm trập làng trên vang tiếng trống,
Tò te xóm dưới rộn hơi kèn.
Giàng sơn quá độ thay thời đỏ
Đất nước vào cầu đổi vận đen.
Kẻ khó nhìn theo mà ngã ngữa
Mừng cho dân Vạc hết ngu hèn!

Hà Nội 25-7-2015
Đ – H

Đỗ Hoàng

BAO GIỜ

(IIây

Bao giờ Tây trắng nhuộm da vàng
Nước Vạc không còn xứ cái bang.
Xóm dưới dân đen xây gác ngoc
Phố trên quan đỏ dựng lầu vàng!
Phận người than bụi không còn mạt
Đời cỏ  bùn  lầy cũng được sang.
Đám khố trần gian nhìn ngưỡng mộ
Hoan hô dân Vạc gặp thiên đàng!

Hà Nội 26-7 – 2015
Đ - H


 

Thứ Sáu, 24 tháng 7, 2015

Dân Vạc

Dân Vạc

Thứ bảy - 25/07/2015 11:07


Đỗ Hoàng

DÂN VẠC

Dân Vạc cái chi cũng tự hào
Ngồi hờ vũ trụ Ngố làm cao.
Điệu đàng dán mác anh Lùn c,ấu
Toe toét may tem ả Mẽo cào.
Miệng nói lời hay thơm thế giới,
Tay làm việc dở  thối hồ ao!
Ai mơ ngủ dậy thành dân Vạc?
Giấc ấy hề hơn Vạc tự trào!

Hà Nội ngày 22-7-2015
Đ - H
 

Nhát chém đầu đời

Nhát chém đầu đời

Thứ ba - 23/06/2015 03:09
Chuyện nhặt (tiếp 12)
 
Đỗ Hoàng

NHÁT CHÉM ĐẦU ĐỜI
 
  Chết dần dần, chết từ từ, chết từ từ, chết từng phần, chết từng phần, chết dần dần…giống như xử tội tùng xẻo thời trung cổ bên Tàu và sập đầm lầy bên Nga
Điều đó rất đúng với thảm cảnh của tôi năm học lớp 10, niên khóa 1967- 1968, thế kỷ trước ở trường cấp 3 Lệ Thủy A – Tuyên Hóa, Quảng Bình, nhất là những ngày đợi chờ cắt giấy hộ khẩu chuyển về bản quán lao động cải tạo!.
  Năm học ấy không phải thi Đại học. Ai đỗ tốt nghiệp đều được đi học đại học mà ai cũng tốt nghiệp hêt. Nhà nước ưu tiên số một cho học sinh tuyến lửa học sơ tán trong chiến tranh chống Mỹ. Trước đó và sau này không có tiền lệ ấy! Trước đó và sau này không có cảnh học sinh lớp 10 cuối cấp ở tập thể, sinh hoạt tập thể trong một nhà lán nơi sơ tán. Ai đỗ, ai trượt tùy theo năng lực làm bài thi, và chỉ biết khi giấy báo báo về, và cũng báo theo địa chỉ nhà riêng, người nào biết người nấy.
 Năm tôi học lớp 10 thì phải sơ tán ra ngoài vùng an toàn Tuyên Hóa (cực Bắc tỉnh Quảng Bình giáp tỉnh Hà Tĩnh). Vì nhà đói quá, tôi phải nghỉ học một năm, học lại năm sau mới phải sơ tán cùng trường. Tôi học thuộc loại khá giỏi, được phê trong học bạ là có năng khiếu môn toán. Toán tôi tổng kết được điểm 5 ( hồi ấy đang thang điểm 5)
  Học kỳ một thì chưa chộn rộn (1) gì, ai cũng chăm chú học. Nhưng đến học kỳ hai khi làm hồ sơ đi học và các thầy chủ nhiệm về quê thẩm tra lý lịch để đi Đại học, lán lớp tôi đêm đêm đều thỏa luận chuyện đi học Đại học nở như ngô rang và sự phân hóa thành phần giai cấp rất căng thẳng. Những ai con gia đình địa chủ nợ máu, gia đình đi lính Pháp, gia đình cường hào gian ác, gia đình liệt sỹ, gia đình có công Cách \mạng… thầy thẩm tra lý lịch học sinh trong lớp biết rõ như ban ngày
  Thầy Ngô Mạnh Quát một cán bộ chính trị trong quân đội về làm chủ nhiệm lớp 10 của tôi hắc hơn bọ xít nhưng rất mẫn cán về lại vùng tuyến lửa lửa Lệ Thủy thẩm tra lý lịch học sinh từng địa phương một để xét đi Đại học.
  Khi thầy ra lại trường thì số phận ai nấy đều đã định đoạt. Hình như thầy nói hết cho chúng nó biết nên đứa nào đứa nấy vui như tết. Cả lớp 10 A cấp 3 Lệ Thủy – Tuyên Hóa đều được địa phương và nhà trường cho đi Đại học trong nước và nước ngoài. Chỉ riêng một mình tôi duy nhất phải về địa phương lao động cải tạo, không được đi học trường học nào dù là trường sơ cấp...(2)
  Từ một tập thể lớp vui vẻ hòa đồng, tôi bị tách ra, bị cô lập như một con chó ghẻ. Đến nỗi lần đón tết Nguyên đán năm ấy, học sinh đến nhà ông Hiệu trưởng nghe đài giải phóng miền Nam năm Mậu Thân, khi ra về, ai ông cũng bắt tay thắm thiết chúc lên đường học đại học nước ngoài, học đại học trong nước an mạnh. Đến lượt tôi, ông đã không bắt tay, không nói một câu nào mà còn nhìn tôi như nhìn một thằng tử tù trọng tội. Cái nhìn sắc như dao găm của một người từng làm lính bị cụt tay trong đánh giặc!
      - Tao đi Đại học Thương mại về sẽ phần đài (radio – báu vật lúc đó) cho chúng mày!
-          Tao đi Đại học Ngoại giao sẽ cho chúng mày đi thăm Liên Xô!
-          Tao đi học Tuyên huấn về sẽ cho chúng mày làm quan
-          Tao , tao….
Mà các bạn học sinh ấy được đi học thật. Lớp tôi có mấy đứa được đi học nước ngoài, học Liên Xô, Bun ga ri, Cộng hòa Dân chủ Đức, Cu ba…Còn lại đi Đại học trong nước.
   Võ Thị Minh Diệt, Phạm Thị Liên, Nguyễn Như Khai (chồng Liên), Đào Tiu (chồng Diệt) Nguyễn Thị Hoa, Ngô Minh Khôi (nhà nthơ Ngô Mi.nh -  Ngô Minh Khôi gia đinh Hải chủ - Đánh cá giàu – Địa chủ, bố bị bắn chết trong Cải cách ruộng đất nhưng địa phương vẫn chứng nhận cho đi học), Nguyễn Văn Bạo đều được học Đại học Thương nhiệp – tên cũ Đại học Thương Mại). Võ Thị Minh Diệt, Phạm Thị Liên, Nguyễn Thị Hoa (Hoa không học được Đại học, phải chuyển về học Trung cấp Thương nghiệp) - học khoa Ăn uống cùng với Nguyễn Thị Doan (Bà Doan, Phó Chủ tịch nước hiện tại); Ngô Minh Khôi, Nguyễn Văn Bạo, Nguyễn Như Khai học khoa Thương phẩm với Nguyễn Bách Khoa (sau này là Hiệu trưởng trường Đại học Thương Mại). Tiền nhiệm là Nguyễn Thị Doan, kế nhiệm là Phạm Vũ Luận – Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo bây giờ
 Xã Ngư Hóa nơi trường sơ tán là một xã vùng núi quanh năm chỉ có mây mù và sương muối. Một nơi cô tịch buồn tẻ không một ai qua lại nếu không có học sinh sơ tán. Khi học sinh mới đến học không có tiêng máy bay, nhưng học được vài tháng thì  máy bay Mỹ đến bắn phá.  Cảnh tượng nhà cháy, người chết không khác gì ở quê. Một cô giáo cấp 2 bị  bom vết thương sọ não phải nằm một chỗ suốt đời.
  Cái nhà lán lớp tôi, nửa nhà nửa hầm do chúng tôi tự làm lấy ngày một vắng hoe. Từ tháng 7 là đã có giấy báo đi học gửi về. Số học sinh học nước ngoài ra đi trước. Học sinh học trong nước đi sau.  Cách một vài ngày là có vài giấy báo đi học gửi về. Cứ có giấy báo là một vài đứa lên đường. Những học sinh có giấy báo đi học làm cho lán vắng dần. Nhìn bạn bè khoác ba lô lên đường, tôi có cảm giác như mình mất đi môt phần máu trong người, lòng tôi đau như cắt.  Không phải mình ghét ghen bạn bè mà xót thương cho số phận hẩm hiu của mình quá!
   Tôi có cảm giác như mình bị tùng xẻo (cắt từng miếng thịt) tinh thần, cái chết đến từ từ như người bị ngập trong đầm lầy. Một cảm giác vô cùng ghê rợn. Tôi thấy trời đất quay cuồng, khi cầm tờ giấy cắt hộ khẩu trả mình về bản quán, còn bạn bè được cắt chuyển hộ khẩu đi học nước ngoài. Tôi viết bài thơ:

MẢNH GIẤY ĐỊNH MỆNH

Cũng là mảnh giấy này đây
Mà đời lắm nỗi đắng cay thế mà.
Một bên đời giữa ngàn hoa
Một đêm tăm tối chỉ là đêm đen!
Cầm tờ giấy buốt con tim
Bạn nhìn tôi cũng lặng nhìn xót xa
Nói gì số phận đời ta
Cũng chung đau khổ, cũng là số đen
Đời sau mong có làm nên
Đời này đến thế là điên cả đời.
Máu dồn đau buốt tim tôi
Cả lòng tim bạn, tim người khổ đau!

Ngư Hóa hè 1968

  Nhóm đi học cuối cùng là nhóm có lý lích bất hảo như gia đình địa chủ, gia đình địa chủ  bị bắn trong Cải cách ruộng đất, gia đình ngụy quân, ngụy quyền, gia đình dính líu đến chính quyền cũ, gia đình chỉ điểm, gia đình có bố mẹ làm trùm, cai, hương vệ ngày trước, gia đình có người đi Nam (miền Nam), số này đi học sư phạm cấp tốc hai tháng để ra dạy cấp hai, thường gọi là lớp sư phạm Mười Rô Hai. Lớp này có Trần Văn Hải (nhà thơ Hải Kỳ). Hải có bố đi linh thợ Pháp, hiện đang ở miền Nam. Tôi không biết gia đình mình nằm vào loại nào mà không được đi học phải về lao động cải tạo ở bản quán!
  Còn một mình tôi trong lán. Tôi như Robinson trên hoang đảo, buồn đau vô cùng vô tận, và tôi viết tiếp bài thơ:

LẺ LOI

Chim vui tung cánh hết rồi
Còn con chim nhỏ giữa trời lẻ loi
Xa xa từng lớp mấy trôi
Bụi buồn theo gió mưa rơi dặm dài
Buồn đau đớn đó lòng ai?
Buồn ngày hôm ấy, ngày mai vẫn buồn.
Chim ơi, mơ những tầng không
Nhưng đời sống đứng trong lồng nơi đây.
Lòng vui khao khát trời mây
Cánh tung như cánh chim bầy đã đi.
Nhưng mà mơ ước những gì
Buồn trong cô quanh, nói chi nỗi đời
Chim vui tung cánh hết rồi
Còn con chim nhỏ giữa trời lẻ loi!

Ngư Hóa hè 1968

  Tôi được mời ra khỏi lán để nhường chỗ cho học sinh lớp 9 lên học lớp mười niên khóa 1968 – 1969. Tôi phải ra chòi dân ngủ lại một đêm để về quê. Đêm bất hạnh nhất, vết chém đầu đời ấy lại là một đêm trăng vô cũng đẹp. Lòng tôi đau đớn tột đỉnh cồn lên đập ầm ào như con sóng Thác Nậy. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi thức trắng đêm. Tôi viết bài thơ:

NGÀY VỀ

Ngày về chắc sẽ là quên hết
Toán lý đời ta những ước mong
Mười năm đèn sách nay trơ trụi
Cô quạnh quanh mình con số không!

Sách vở gói quanh tờ giấy cũ
Còn mơ chi, ước mộng chi hoài
Tất cả đã trôi về dĩ vãng
Buồn đau thất vọng đến ngày mai!

Ta nghĩ đời ta chỉ thế thôi
Không nói làm chi cũng biết rồi
Ngày mai đừng nghĩ ngày mai nữa
Một bóng mây đen choán ngang trời!

Ngư Hóa hè 1968

 Tờ mờ sáng, một mình tôi một bóng, lẻ loi giữa điệp trùng núi non rợn người, khoác ba lô nhằm núi Mồng Gà về xuôi!

Hà Nội 22-6-2015
Đ - H


 (1) Ồn ào, lộn xộn
(2) Mãi đến khi tham gia Hội văn nghệ Quảng Bình, hơn 10 năm sau tôi mới biết lớp 10 B (trường cấp 3 Lệ Thủy A có hai lớp 10. Lớp tôi lớp 10 A) còn có Lâm Thị Mỹ Dạ cũng không được đi Đại học, cũng bị trả về bản quán lao động vì bố Dạ người Hoa lại di cư vào Nam. Nhưng Dạ may mắn là có tài thơ, bài thơ Nón chị được giải báo Phụ nữ Việt Nam, Dạ được Hội văn nghệ Quảng Bình nhận về làm cán bộ biên tập.

Từ Hải chống chiến tranh

Từ Hải chông chiến tranh

Chủ nhật - 28/06/2015 03:10


TỪ HẢI CHỐNG CHIÊN TRANH MẠNH MẼ


Lts: Trong nguyên bản Kim Vân Kiều truyện, Từ Hải – Minh Sơn chết đứng, cấm khẩu sau cú lừa ngoạn mục của Hồ Tôn Hiến. Cái chết ấy là cái chết của đẳng cấp cấp Tù trưởng – tiểu đội trưởng, đại đội tưởng bây giờ. Còn bậc quân vương, cổ kim đều bị bắt sống. Đó là điều biện chứng. Trong Kiều Thơ của Đỗ Hoàng, Từ Hải – Minh Sơn thể hiện đúng là bậc minh quân. Từ Hải là đấng “Naĩ tri binh giả thị hung khí/ Thánh nhân bất đắc dĩ nhi dụng chi” (Binh đao là việc ác độc/ Thánh nhân cực chẳng đã mới dùng nó)

Nguyên bản:



Đỗ Hoàng (chuyển ngữ)

KIM VÂN KIỀU  TRUYỆN
Thanh Tâm Tài Tử

Hồi 19 (trích)
Mắc mẹo lừa ,Từ vương chết đứng,   
Nợ đoạn trường, Kiều Thúy trả xong
…Minh Sơn người đầy cung tên cắm vào, không gượng được nữa, kêu: Phu nhân làm hỏng việc của ta. Rồi hắt hơi mà chết. Chết không nói được một lời nào nữa Chết đứng sừng sững…
Quan quân trong mà cả sợ không ai dám đến. Lính tráng áp giải Thúy Kiều đi qua nhìn thấy Minh Sơn chết đứng, nàng nức nở khóc: Từ là bậc anh hùng, bởi nghe lời thiếp nên bất đắc kỳ tử. Đại vương ơi, thiếp tôi đã làm lỡ việc lớn.Thiếp đâu dám có mặt trên cõi đời này để phụ ơn Đại vương. Khấn xong , Kiều khóc lạ thay, Minh Sơn mở choàng đôi mắt, lệ tuôn như mưa, tự nhiên thi thể đổ xuống.
  Thuy Kiều nghe thấy hai chữ “Trào Tín", nhở lại chuyện ngày xưa, hỏi răng
: Đây có phải song Tiền Đường không?
Khách đáp: Phải. Thúy Kiều nghĩ: Đời ta kết thúc ở đây.Đạm Tiên đã báo mộng từ 15 năm trước rồi. Nhân tiện làm bài thơ Lục Tuyệt (6 câu)
“Thập ngũ niên tiền hữu ước
Kim triêu phương đáo Tiền Đường
Bách thé quang âm hỏa thước
Nhân sinh thân sự hoàng lương
Trào Tín thôi nhân khứ dã
Đẵng nhàn liễu khước đoạn trường!”
(- “Ước nguyền mười lăm năm qua, (757)
Tiền Đường ác mộng hoá ra hậu đường.
Trăm năm một thoáng âm dương.
Trọn đời giấc mộng hoàn lương nhạt nhoà.
Sóng triều giục bước người xa.
                                        Đoạn trường thanh sạch trả ta nợ đời!”)

  Đề xong bài thơ, Thúy Kiều kêu to: Từ Minh Sơn hậu đãi ta, vì việc nước mà ngộ sát. Mặt mũi nào đứng trong cõi đời. Ta đem cái chết để tạ Minh vậy!

Bắc Kinh 2006
Đ – H
KIỀU THƠ (trích)
4990- Mở mắt ra rõ sự tình.
Tấm thân mười thước cực hình gióng gông.
Binh tan như ngọn cỏ bồng.
Thây phơi đầy bến, đầy sông,  đầy đò.
Động trời vang tiếng reo hò.
4995- Nhữ Trinh lừa trận thắng to vang lừng. (745)
Hồ công mở tiệc ăn mừng
Đem Từ làm vật tương trưng tế thần.
Lệnh ban tháo củi, phóng thân,
Đưa vào đến tận trung quân mời ngồi.
5000- Rằng: “Nghe dũng trí hơn người,
Lại rành chữ nghĩa một thời bút nghiên.
Đã từng đọc sách thánh hiền.
Mà làm thảo khấu cuồng điên thế này?
Những bầy giặc cỏ xưa nay.
5005- Thiên triều nhất quyết ra tay diệt trừ.
Tội đồ truyền kiếp họ Từ.
Hành hung bạo ngược ác ngư, sói hùm.
Bây giờ thân đã đóng cùm.
Hỏi ra dũng khí, anh hùng ở đâu?
5010- Sẽ làm cho biết mặt nhau.
Ai cái thế, ai bêu đầu coi chơi!”  (746)
Từ rằng: “Việc ấy có trời.
Tiểu nhân đắc chí ngàn đời khác chi. (747)
Thiên triều nay đã mất uy.
5015- Dân tình đói rét còn gì mà mong.
Ăn xin, ăn cướp đầy đồng.
Chết đường, chết chợ, chết sông, chết đò.
Mệnh quan càng lớn càng to.
Lâu đài càng rộng, vàng kho càng nhiều.
5020- Thê thê, thiếp thiếp, yêu yêu.
Đờn ca xướng hát hết chiều, đến đêm.
Trong triều ngoài quận đảo điên.
Ta đây dấy nghĩa hạ thiên thay trời.
Hợp tình hợp ý muôn người.
5025- Làm vì nghĩa lớn đời đời dân tin.”
Hồ rằng: “Bao đám yêu tinh.
Cũng xưng vì nghĩa, vì tình với dân.
Nhưng rồi cướp phá giành tranh
Đôi bên giặc cỏ, thập thành thanh lâu.
5030- Có gì đạo đức cao sâu.
Một bầy mọi rợ từ đầu đến đuôi.
Còn làm ra vẻ dạy đời.
Thân phanh, trôốc mất đến nơi còn gừ!”
Từ rằng: “Chính sự nát nhừ,
5035- Quan thành lang đạo vua như bù nhìn.
Trong thành ngoài nội điêu linh,
Núi sông chết đứng, dân tình xác xơ.
Già nua không chỗ cậy nhờ,
Tang thương đến nỗi trẻ thơ bạc đầu!
5040- Lân bang chẳng cậy nhờ nhau.
Sách không ghi hết nỗi đau dân lành.
Máu người uống chẳng biết tanh
Gây ra bao cuộc chiến tranh bạo tàn.
Oan khốc từ phố đến làng.
5045- Thượng bất chính hạ làm càn ác tâm.
Lạ gì cái lũ quan dâm,
Miệng hô thiên tử, dao đâm tim người.
Thuyền rồng dỡn sóng, xe chơi.
Một phường ăn máu muôn đời dân đen!
5050- Lập công nấp váy kẻ hèn.
Cổ kim sử sách ai khen bao giờ!
Ta đây thác bụi chôn bờ.
Muôn năm dân nghĩa vẫn thờ khói hương!”

NXB Hội Nhà văn in nhật ký...

Với “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” Nhà xb Hội nhà văn đã vi phạm pháp luật hình sự.

Thứ ba - 16/06/2015 06:05

Với  “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”
Nhà xb Hội nhà văn đã vi phạm pháp luật
hình sự.


PHẠM ĐÌNH


Tôi cho rằng với bài “ Trả lời các cư dân mạng có tham gia “ bình loạn” về bài “ Những phù thủy của văn nô” - của nhà biên khảo Thái Doãn Hiểu - đăng trên “Văn nghệ và Cuộc sống   và “Tễublog”, ngày 31/5, một lần nữa đã giải quyết rốt ráo “ vấn đề nhật ký Đặng Thùy Trâm”; thậm chí, chỉ với điểm 5.2, ông đã vạch trần cái gọi là “ Nhật ký Đặng Thùy Trâm” của nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2005. Tuy nhiên, chúng tôi xin cung cấp thêm một thông tin thú vị để bạn đọc tử tế có thể nhận diện rõ hơn vụ việc này.
          1. Trước hết, mời bạn đọc xem Điều 284 Bộ luật hình sự.
      Điều 284 Bộ luật hình sự quy định:
 "1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
b) Làm, cấp giấy tờ giả;
c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng
đến ba mươi triệu đồng”. 
      
          2. Có gì liên quan không giữa sự kiện nhật ký ĐTT với điều luật này? Có đấy! Sự kiện ấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự.
          Mười năm trước, những người trực tiếp và gián tiếp tham gia vào việc chuyển cuốn nhật ký của ĐTT - vốn là của riêng người viết – thành một cuốn sách và phát hành rộng khắp, đã từng “sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu (đã thêm bớt, tẩy xóa hoặc có hành vi khác làm cho cuốn nhật ký không còn phản ánh đúng sự thực khách quan nữa). Những người này có chức vụ, quyền hạn nên có khả năng tiếp cận cuốn nhật ký gốc và họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm cho nội dung của giấy tờ, tài liệu sai lệch….không còn tính nguyên vẹn của nó.
          Xin bạn đọc chú ý tiết a ( Khoản 1); các tiết a,b,đ ( Khoản 2); Khoản 3 và Khoản 4 của điều luật, mà người viết những dòng  này cố ý in đậm để bạn đọc tiện chú ý và liên hệ, thì sẽ thấy rõ hơn.
          3. Lại có thể nói hành vi giả mạo 10 năm trước của những người trực tiếp biến cuốn nhật ký của Đặng Thùy Trâm thành tác phẩm văn học ( như bạn đọc đã thấy) là hành vi nguy hiểm, đã gây hậu quả nghiêm trọng. Nói vậy chưa đủ mà có lẽ phải nói là đã gây hậu quả rất nghiêm trong – nhưng nói thế dường như vẫn chưa đủ, mà phải nói lại cho chính xác hơn là đã gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Bởi vì, bằng việc làm ấy, họ đã:
-         Xúc phạm vong linh người viết cuốn nhật ký, đã khuất. Tại sao lại đem sửa chữa, bổ sung, thêm bớt…nhật ký của người ta rồi đem nhật ký – vốn dĩ là những ghi chép rất riêng tư của   người ta – làm thành sách rồi trưng ra trước bàn dân thiên hạ?
-         Xúc phạm hàng chục triệu độc giả trong nước, ngoài nước ( bạn đọc được thưởng thức nhầm một sản phẩm giả)
-         Khiến hàng chục triệu bạn đọc bán tín bán nghi, hoang mang, thất vọng và mất niềm tin.
Tóm lại, hậu quả tác hại của hành vi giả mạo của những người sửa chữa rồi đem in ấn thành sách, cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm năm 2015, đã gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà có lẽ đến nay chúng ta vẫn chưa đánh giá hết được./.

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

Với Văn công Trường Sơn

Đỗ Hoàng

VỚI VĂN CÔNG TRƯỜNG SƠN (1)

Ra cho mà hát, mà hò
Một đời lính mọi còn trơ xương sờn.
Một đời sống kiếp Trường Sơn
Ra chi mà hát thêm buồn lắm em!

Trường Sơn 1972

(1) Rút trong tập thơ Tâm sự người lính - NXB Văn học 1996

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói Vô Lối Nguyễn Quang Thiều nốc ao!

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói Vô Lối Nguyễn Quang Thiều nốc ao!

  Mấy năm trước tôi có nhiệm làm tiêu binh cho các cuộc quy tiên của các nhà văn là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
 Hôm ấy có đám tang của nhà văn Kim Lân ở nhà tang lễ Trần Thánh Tông, Hà Nội.
 Tôi vừa gửi xe đi bách bộ vào chỗ lễ thì gặp nhà thơ Trần Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa nổi tiếng từ bé, nên tôi hay gọi Thần Đồng để xưng hô, vì tôi lớn hơn Khoa 10 tuổi mà chẳng danh giá gì!
 Trần Đăng Khoa là người kỳ tài trong việc thẩm thơ.
  Hồi tôi đang làm biên tập ở tờ Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, một lần đến nhà riêng anh xin bài thơ “Lính trẻ” để in trên Tạp chí.
 Nhà Thần Đồng lúc ấy đang là căn hộ tập thể được quân đội phân cho trên đường Lý Nam Đế.
 Vào nhà thấy tập thơ “ Sóng Reo” hay “Suối Reo:” gì đó của Nguyễn Đình Thi tặng Trần Đăng Khoa.
 Tôi chưa nói gì thì Khoa đã mỉa:
-         Bác thấy đó, tập này dở hết chỗ nói.
Tôi trăm phần trăm khâm phục:
-         Thần Đồng thật là có con mắt xanh hơn người!
Tôi càng phục Khoa từ đó.
 Nhưng Khoa không bao giờ làm mất lòng ai. Chắc Khoa đã học cách ứng xử của các nhà thơ tài danh lớp trước như Xuân Diệu, Huy Cận. Không thích thì cười cho qua.
 Rồi Khoa làm được mấy cai chức còi nên Khoa càng im lặng. Kiểu mặc mẹ chùng mày, ông phải lo cơm ăn áo mặc, việc gì chen vào bình phẩm ba cáiVô lối của chúng mày!
    Đi lên gần Khoa, tôi nói: - Thần Đổng cũng đi đưa tang Kim Lân à?
   Khoa cũng cười nhưng không vào chủ đề mà lại nói:
-         Bác đả Nguyễn Quang Thiều hay đấy!

                Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Thần Đồng cũng đọc mạng sao? – Tôi hơi ngạc nhiên.
Khoa cười: - Bác tưởng bọn chúng tôi không đọc mạng đấy chắc? Tôi là một cư dân mạng!
Hóa ra vừa rồi, nhân Nguyễn Quang Thiều đưa lên cái bài “Tấm Thảm Thổ Nhĩ Kỳ” bị la ó, tôi đọc nó tôi thấy đúng là một thứ bà dằn vô tích sự, thơ không ra thơ, văn không ra văn, một loại quái thai của văn chương mà lại được đám ba đầu sáu tay tung hô hết cỡ, tôi liền chuyển nó ra thể thơ song thất lục bát và lục bát để cho mọi người còn biết nó là cái gì. Tôi không ngờ Khoa lại đọc nó.
 Tôi nói: - Tôi định viết một bài phê phán hoàn chình nhưng chưa làm xong!
Khoa nói ngay: - Bác đả thế là Nguyễn Quang Thiều nốc ao rồi, không cần nhiều lời nữa!
Hà Nội ngày 15 - 5 -2012
Đỗ Hoàng

 

Trích bài tham khảo

Dịch vô lôi - Nguyễn Quang Thiều

CÓ THẬT " THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU..." ? 
Trần Mạnh Hảo
Báo Văn Nghệ tết Canh Dần ( số 6+7+8 -2010) trang 54 có in bài "Thơ không để hiểu..." của tác giả Nguyễn Chí Hoan, ghi chú dưới "tít" bài : "Đọc "cây ánh sáng", tập thơ của Nguyễn Quang Thiều, NXB Hội Nhà Văn 2008". Cũng cần phải nói thêm, cuối "tít" bài thấy xuất hiện ba chấm chấm (...) dụng ý tác giả muốn đưa ra một khái niệm đầy đủ nối với ba chấm chấm đầu bài viết ...rằng : " THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU MÀ ĐỂ TƯỞNG TƯỢNG". Khái niệm quá mới mẻ của Nguyễn Chí Hoan : " Thơ không để hiểu mà để tưởng tượng" dùng làm công cụ giải mã tập thơ "Cây ánh sáng" của Nguyễn Quang Thiều; người đọc, tất nhiên phải hiểu đấy là một sự khái quát bàn về thơ nói chung. Nếu tác giả muốn dùng thước đo quá riêng biệt của mình là : "Thơ không để hiểu mà để tưởng tượng" để lý giải riêng trường hợp thơ Nguyễn Quang Thiều, thì cái "tít" phải là : " Thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ra không để hiểu mà để tưởng tượng"...
Trong bài viết này, chúng tôi không bàn về tập thơ "Cây ánh sáng" của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều mà chỉ xin phép bàn về quan niệm thơ rất khác thường của Nguyễn Chí Hoan : " Thơ không để hiểu..." và vế thứ hai của mệnh đề : "...Mà để tưởng tượng" của ông mà thôi.
Văn học nói chung và thơ nói riêng vốn là nghệ thuật ngôn từ, sinh ra để truyền cảm, làm xúc động trái tim con người, đi từ TÌNH CẢM tới NHẬN THỨC. Hay nói một cách khác : văn học được nhận thức bằng tình cảm. Một tác phẩm văn học không hướng tới chân thiện mỹ, không có tính thẩm mỹ, dù tư tưởng của nó cao siêu đến đâu cũng quyết không phải là một tác phẩm nghệ thuật. Khác với toán học, vật lý học, hóa học...dùng công cụ duy nhất là hiểu biết để khám phá quy luật khách quan của thế giới vật chất, một tác phẩm thi ca đề cao sự sáng tạo chủ quan của người nghệ sĩ không đặt vấn đề cốt lõi "hiểu" hay "không hiểu" ra làm tiêu chí tối hậu, mà đặt ra lý do tồn tại của nó rằng thẩm mỹ hay không thẩm mỹ ? Một tác phẩm văn học nói chung, một tác phẩm thi ca nói riêng nếu đã đặt được cái "mỹ" ( Cái Đẹp), tức nhiên nó đã bao hàm cả cái "chân" ( hiện thực) và cái "thiện" ( cái tốt).
Dùng thước đo "hiểu" hay "không hiểu" để tìm bản chất của nghệ thuật thi ca, chúng tôi ngờ tác giả Nguyễn Chí Hoan đã đi lạc vào lĩnh vực khoa học tự nhiên, hay chí ít cũng lạc vào khu rừng triết học nơi các đệ tử của Socrate dùng sự hiểu biết để khám phá ra quy luật của các quy luật sinh tồn...chăng ?
Tiêu chí HAY hay dở, truyền cảm hay không truyền cảm mới là thước đo định giá trị của thi ca chứ không phải "không hiểu" hay "dễ hiểu" là phương pháp tiếp cận thơ lầm lạc của Nguyễn Chí Hoan. Do sự hiểu sai bản chất của thi ca như thế, nên khi Nguyễn Chí Hoan áp dụng vào trường hợp cụ thể là bài "thơ" dưới đây, dùng làm dẫn chứng của bài viết, rằng thơ Nguyễn Quang Thiều sinh ra để chống lại sự hiểu, chống lại nhận thức, cốt chỉ để tưởng tượng mà thôi, xin trích lại sự trích dẫn của tác giả bài viết :
"...Một thí dụ tiêu biểu về câu chuyện trong thơ ở tập này là bài thơ "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ", toàn văn như sau : 

Bài " thơ " Nguyễn Quang Thiều
Lịch sử Tấm thảm Thổ Nhỹ Kỳ
" Người hướng dẫn : Được dệt thủ công bởi một người đàn bà Thổ Nhĩ Kỳ
"Người mua : Mua lại từ một ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
"Chủ nhân : Qùa tặng của con trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm
Lúc gần sáng tiếng những cành khô gãy
Những con nai cái mùa động đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ 5 nói : "Mẹ đau lắm"
21 năm tấm thảm không thay đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục sôi
Người hướng dẫn : Những ngón tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua : ông già da đen Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân : Tôi chỉ nhớ gương mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn : ( đã bỏ nghề)
Người mua : hình như không phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân : Tôi nhìn thấy những người thân đã chết cháy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ hai
Hết bài thơ Nguyễn Quang Thiều
Sau đó là gần một nửa bài nhà Nguyễn Quang Thiều học Nguyễn Chí Hoan dùng "lí luận" để giải thích bài thơ trên, mong giúp độc giả HIỂU ĐƯỢC sự KHÔNG HIỂU kia ! Thật là một trò trốn tìm thú vị. Bài thơ trên của Nguyễn Quang Thiều sinh ra, theo lí luận của Nguyễn Chí Hoan là cốt để "không hiểu", cốt để "tưởng tượng " mà thôi ! Sau đó thì nhà lí luận thi ca theo trường phái " kỳ đà là cha cắc ké, cắc ké là mẹ kỳ nhông, kỳ nhông là ông kỳ đà" kia giúp độc giả phiên dịch cái sự "KHÔNG HIỂU" kia thành sự HIỂU ...Vậy thì các ông đặt vấn đề KHÔNG HIỂU là mục đích của thơ ca ra làm gì ? Để rồi các ông lại phải dùng SỰ HIỂU giải mã bài thơ "không thể hiểu" trên? Nguyễn Chí Hoan càng giải mã bài thơ trên của Nguyễn Quang Thiều chúng tôi càng tắc tị, tuyệt nhiên không hiểu gì, hiểu được chết liền !
Cái gọi là bài thơ :"Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" trích trên của Nguyễn Quang Thiều sinh ra trong sự mất trí của thi ca ( thơ không để hiểu) nên nó chỉ phục vụ cho mục đích hũ nút mà thôi ;nên nó tuyệt nhiên không có chút truyền cảm nào. Mà không có dấu vết của sự truyền cảm, của rung động thì theo chúng tôi, có dùng lí luận "con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đấy, con cóc nhảy đi" theo kiểu phương pháp tiếp cận thi ca lầm lẫn của Nguyễn Chí Hoan cũng không thể biến con con gà bới bếp thành con công thi ca được...
Không có sự truyền cảm, sự rung động, không có cái hay cái đẹp đi kèm theo những con chữ thì không thể gọi chúng là thi ca. Dù mỗi bài thơ theo kiểu "tấm thảm" của ông già Khốt ta bít trên bao giờ cũng có nhà giải mã Nguyễn Chí Hoan kè kè bên cạnh dẫn giải, cũng không thể làm rung động lòng người. Vì cái rung động lòng người do thi ca mang lại thường là trực giác, tức thì, không cần lời giải thích vòng vo tam quốc. Ví như Truyễn Kiều của Nguyễn Du đã làm hàng vạn người dù không biết chữ rung động, đâu có cần các nhà hàn lâm dông dài dẫn giải ? Trước một cô gái đẹp, trước một vầng trăng đẹp, trước một câu thơ hay, một bài thơ hay con người bị truyền cảm một cách tức thời, một cách trực giác...
Đưa thi ca vào cõi mất trí, cõi không hiểu, để rồi đi vòng vo lí giải giúp người ta hiểu được cái sự không hiểu của nhà thơ chính là phương pháp giết thơ nhanh nhất do nhà lí luận "phản nhận thức" Nguyễn Chí Hoan vừa khám phá ra, để làm món quà tặng ngày thơ Việt Nam trên báo Văn Nghệ số tết Canh Dần. Không có sự hiểu biết, không có chính đời sống con người, chứ chưa nói đến những sản phẩm của con người như tôn giáo, khoa học, nghệ thuật...
Lầm lẫn phương pháp tiếp nhận thi ca bằng cách đuổi sự hiểu, đuổi lí trí, đuổi nhận thức ra khỏi thi ca, Nguyễn Chí Hoan còn không hiểu nổi ngữ nghĩa của từ "hiểu" và từ "tưởng tượng". Xin ông Nguyễn Chí Hoan hãy xem lại từ điển Tiếng Việt để thấy rằng, khi ông tách tưởng tượng ra khỏi sự hiểu ( thơ không để hiểu mà để tưởng tượng) chính là ông đang tách cá ra khỏi nước đấy...Không có một sự tưởng tượng nào của con người nằm ngoài sự hiểu biết, nằm ngoài lí trí, nằm ngoài nhận thức...Tưởng tượng có thể ví như hoa trái của sự hiểu biết, của lí trí, của nhận thức. Hay nói cách khác, sự hiểu biết và sự tưởng tượng là một quá trình đồng thời, không phải là bước thứ nhất rồi mới đến bước thứ hai. Tưởng tượng chính là ký ức về quá khứ hay những hình dung về một thế giới chưa có thật, không có thật xuất hiện trong sự kiểm soát của lí trí, của sự hiểu biết nơi con người...Bảo thơ sinh ra không để hiểu mà để tưởng tượng như Nguyễn Chí Hoan, vừa hết sức sai và hết sức buồn cười vậy .,.
Sài Gòn ngày 26-02-2010
T.M.H.

Đỗ Hoàng dịch Vô lối "Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ" ra thơ Việt
 
       Người viết cứ viết ra theo sự suy nghĩ chủ quan của mình. Sau đó người ta phân và chia ra làm nhiều thể loại như: Văn, thơ, phú, tế, hịch, ca dao, tục ngữ, vè, nói lối, hát vui chơi, nói vui chơi...
  Thời hiện đại các tác giả cũng có nhiều cách viết, cách nói, cách lập ngôn nhưng chưa thấy các nhà phê bình phần loại thể. Tôi đã có nhiều lần đề nghị với tư cách cá nhân khi thấy nhiều người viết ra nhiều kiểu lạ mắt lạ tai, thấy thơ cũng không phải thơ, văn cũng không phải văn, dịch cũng không phải dịch, truyền thống cũng không phải truyền thống; người trẻ cũng có, người già cũng có; tộc người đa số cũng có, tộc người thiểu số cũng có; các kiểu viết ấy nên gọi với cái tên phân thể loại là "Vô lối". Từ "Vô lối" cũng đủ giải nghĩa các kiểu viết trên. Đại biểu cho kiểu "Vô lôi" này là Thanh Tâm Tuyền, Lê Văn Ngăn, Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phú Trạm Inrasara, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư, Phạm Vân Anh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Vũ Thuật...
 Xin dịch bài "Vô lối" 
 Lịch sử một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ
Tác giả Nguyễn Quang Thiều

"Tấm thảm Thổ thăng trầm thiên biến,
Hướng dẫn viên dẫn chuyện rõ ràng:
- Thảm này dệt sợi dọc ngang,
Một bà Thổ có tay vàng làm ra.
Người mua lại một ông già,
Da đen quốc tịch Cu Ba rạch ròi.
Ở Ha va na hẳn hoi.
Vào năm tám sáu cũng thời mới đây.
Chủ nhân nói: - Tấm thảm này,
Quà con trai tặng cho thầy u thương!
Hai mốt năm treo trên tường.
Cỏ cây muông thú lạ thường hiển linh (1)
Sớm khuya vang vọng quanh mình,
Tiếng cây, tiếng suối thập thình đâu đây.
Tiếng nai gọi bạn hao gầy,
Mùa sinh sôi giục đàn bầy đến nhanh.
Chủ nhân tám bảy xuân xanh.
Sáng xơi trà nguội đã thành thói quen.
Những con nai đực khát thèm,
Nhưng nhà đóng cửa cài then chặt rồi.
Bà già năm lượt đi ngoài,
Lưng còng chân yếu kêu lời xót đau.
Thảm không dịch chuyển đi đâu,
Hai mốt năm vẫn gắn đầu chỗ treo.
Ông năm mươi tuổi dáng nghèo,
Trở về thường đứng vai đeo túi hờ.
Ngôi nhà tối sáng mập mờ,
Tràn lên tấm thảm tiếng hô hoán đầy.
Phía sau tấm thảm ai hay?
Lưỡi dao sắc lạnh đợi ngày bén xơi.
Một cái chảo sùng sục sôi,
Hướng dẫn viên: - Bà Thổ quả thiệt thòi tấm thân.
Mù loà liệt cả tay chân.
Người mua lại kể ngọn ngành xảy ra.
Ông già da đen Cu Ba,
Khốn cùng tự vẫn thế là đi tong.
Chủ nhân bày tỏ thật lòng:
- Nhớ con trai gương mặt hồng như hoa.
Chính lúc tấm thảm mở ra,
Một người lạnh cóng như là chết khô
Đứng nhìn tấm thảm trống trơ,
Hai chân đông cứng lặng tờ máu tươi.
Hướng dẫn viên bỏ nghề rồi.
Người mua quên bẵng một thời mình mua.
Chủ nhân: Tôi bạn khiếp chưa?
Người thân chết cháy chẳng lưa thứ gì,
Gốc cây trong thảm thâm sì.
Bây giờ là đúng năm nhì ai ơi!

(1) Người dệt tài tình đến mức cây cỏ, muông thú trog tấm thảm trở thành sinh linh có sức sống ngoài đời chạy nhảy.

Hà Nội, ngày 7 - 3 - 2010
Đỗ Hoàng