GỬI NHÀ VĂN ĐỖ TRƯỜNG
Hà Nội, Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 2013
Kính gửi nhà văn Đỗ Trường!
Đọc bài anh viết về tôi, tôi quá cảm kích và xúc động. Trước hết anh đã hiểu tôi như những người bạn cùng tuổi chơi thân với nhau, hàng ngày cùng bia bọt ở trong nước, thứ nữa anh đã hiểu những tác phẩm tôi viết một cách sâu sắc, chia sẻ cùng tôi những suy nghĩ trăn trở một thời và cả bây giờ những vấn đề lớn lao của đất nước, con người, nhân loại toàn cầu. Với tầm nhìn, tầm nghĩ như anh lại được được tiếp xúc với thế giới rộng lớn bên ngoài, thế giới của những nền văn hóa lớn, nền văn mình vượt xa tổ quốc chúng ta; anh đã phân tích, bàn bạc, nhận định một cách khách quan, trung thực mà nhiều người ở quốc nội vì lý do này, lý do khác không kiến giải hết.
Đỗ Hoàng tại nhà riêng ở Huế
Cám ơn anh vô cùng! Anh đã chia sẻ cùng tôi người cùng họ. Họ mình nhỏ, ít người quá. Tôi ở khắp đất nước cố tìm họ nhưng ở đâu họ mình cũng lưa thưa. Không phải bênh vực, bè phái họ hàng, nhưng họ mình chia sẻ và dựa vào các họ lớn để vươn lên là một điều rất tốt mà con cháu trong họ phải biết. Nó cũng như các dân tộc nhỏ phải dựa vào dân tộc lớn để phát triển; nước nhỏ phải dựa vào nước lớn để tồn tại.
Anh đã khá hiểu tiểu sử của tôi và bi kịch gia đình. Tôi xin thưa thêm vài điều nhỏ để hiểu thêm những năm tháng đau thương của gia đình, quê hương, đất nước.
Ba tôi mất khi tôi mới 8 tháng tuổi, (ngày trước ở quê tôi, con nhà có tý chức sắc thì gọi bố bằng ba, con nhà thấp thì gọi bố bằng bọ), mẹ tôi phải đi xin sửa khắp bà con tản cư ở chiến khu Bang Rợn (Lệ Thủy, Quảng Bình). Tám tháng tuổi thì làm sao biết được chuyện gia đình. Sau này khai lý lịch thì chính quyền địa phương bảo sao khai vậy. Không thể khai như bà con trong họ kể và mẹ tôi kể.
Năm học lớp 9 cấp 3 Lệ Thủy (tương đương lớp 11 bây giờ). Tôi được giới thiệu vào Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam. Muốn vào đoàn thì phải khai lý lịch. Tôi ghi bố: chết.
Không kết nạp được Đoàn. Mãi đến cuối năm, anh Bí thư Chi đoàn lớp bào phải khai rõ ràng: Bố chết vì gì? Tôi phải về hỏi mẹ tôi. Phong tục Việt Nam là xấu che, tốt khoe. Ai lại bảo bố chết trận bao giờ. Mẹ tôi không nói nhưng tôi bảo, trên rộng rãi, họ muốn biết chết vì gì. Và cuối cùng tôi khai : Bố chết trận!
Tôi được kết nạp Đoàn, thành Đoàn viên thanh niên Lao động Việt Nam tại Chi đoàn lớp 9C, trường cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình (năm học 1966- 1967).
Hai người lính bắn nhau như anh viết chính là chuyện đồn thổi, không có thật. Nhưng hai người lính ấy là hai người chồng của mẹ tôi.
Ba tôi đi lính sang Pháp năm 1939, không phải đánh nhau ở An giê ri mà đánh nhau với Đức Quốc xã khi chúng chuẩn bị vào Pa ri xâm lược Pháp. Cùng đợt ấy có cả bốn bác tôi nữa. Và năm anh em đều bị tù ở Đức.
Ba tôi cùng mấy anh em về nước năm 1946 , hình như cùng chuyến tàu với Bác Hồ. Mấy anh em nghe theo Bác Hồ đều đầu quân đánh giặc. Vì cán bộ quân sự thời Cách mạng tháng Tám năm 1945 hiếm lắm. Nghe nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp biết tên đến đại đội trưởng. Ba tôi là em út nhưng cũng đã lên được Quản thì phải. Các bác lên trước Quản, Đội nhiều năm. Ai cũng đều là cán bộ quân sự tỉnh, huyện Việt Minh, đảng viên, rồi về hưu.
Riêng ba tôi làm đại đội trưởng 361 huyện đội Lệ Thủy, Quảng Bình. Ông Lê Hoản làm Chính trị viên. Hồi ấy Việt kiều trở về nước mới giỏi quân sự, mấy anh thanh niên ở làng biết gì a lô xô, đi ong đơ (đi đều một, hai)…
Ông Lê Hoản là người cùng làng (Thuận Trạch, Mỹ Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) cùng hoạt động Cách mạng thời tiền khởi nghĩa với mẹ tôi, cùng trong Chi bộ, Đảng bộ, cùng cướp chính quyền ở huyện lỵ Lệ Thủy,cùng tham gia tích cực Tuần lễ vàng Mẹ tôi là Bí thư phụ nữ xã Cao Vân, sau đó là Bí thư phụ nữ huyện Lệ Thủy. Mẹ tôi tuy đã có con gái lên 5, 6 tuổi, có chồng đi Pháp bảy, tám năm không biết sống chết thế nào, nhưng ông Hoản vẫn lấy mẹ tôi làm vợ.
(Thời ấy trai tân lấy nạ dòng là chuyện ngược đời.). Anh ruột ông Hoản là Lê Lỵ đã lấy dì họ tôi rồi.
Hai người có với nhau một người con trai (tức là anh cùng mẹ với tôi, hơn tôi mấy tuổi). Nhưng anh mất khi lên chiến khu vì sốt rét.
Khi ba tôi bên Pháp về thì mẹ tôi ở vào tình huống rất khó xử. Trong làng có câu ca:
Hoàng Thị Khê bốn bề ngao ngán (1)
Lê Thị Gắn chắc chắn chồng về (2)
(1) Mẹ tôi
(2) Bác gái ruột của tôi, vợ bác Đội Diệm
Sau nhiều dằn vặt, mẹ tôi trở lại với chồng cũ, bỏ ông Lê Hoản.
Ông Hoản nói ba tôi đã giết chết con ông. Mâu thuẩn địch ta không phải Việt Minh và Pháp mà là giữa Ba tôi và ông Hoản. Ông Đại đội trưởng và ông Chính viên không thể hòa hợp rồi chuyện không hay xảy ra, không biết hư thực thế nào?
Ba tôi chỉ huy quân sự nên chẳng mưu cao như ông Chính trị viên.
Ông Đỗ Đức Triển (Bố của Đỗ Hoàng thời ở Pháp)
Ba tôi có làm thơ:
Con ơi con!
Cha mắc tòng quân qua Pháp
Cho nên chi cha Sở, con Tần
Thương mẹ con trăm phần chi xiết
Nỗi đớn đau này ai có biết?
Giục lòng cha Âu, Á đôi phương…
(Mẹ tôi đọc được một đoạn như vậy- Bài này viết cho chị tôi. Hồi đó tôi chưa sinh)
Đấy là tôi nghe người lớn tốt nói lại vậy thôi, không biết có đúng không xin mọi người lượng thứ.
Khi hòa bình lập lại sau năm 1954, tôi nghe mẹ tôi nói, khi tôi đi vắng, ông Hoản nhiều lần đến tìm mẹ tôi, nhưng mẹ tôi bảo làm nít (vợ bé), mẹ tôi không chịu. Ông còn nói nếu chịu ông sẽ nhận tôi làm con ông để đi học nước ngoài. Mẹ tôi vẫn không chịu!
Chuyện nó như thế anh Trường ạ!
Một lần nữa vô cùng cảm ơn anh đã viết rất đúng về tôi, về dòng họ Đỗ nhỏ và ít của mình trong cộng đồng người Việt.
Chúc anh khỏe viết tốt!
TB: Nhà văn Bảo Ninh nổi tiếng với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh sau khi đọc bài của anh do tôi chuyển đến đã nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm anh và khen bài viết của anh
Đỗ Hoàng
Đỗ Hoàng
Tạp chí Nhà văn
Số : 65, Nguyễn Du, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 0913369652
Về văn xuôi tôi có các quyển sau:
(1) Phí một thời trai
(2) Cuộc chiến vừa tàn
(3) Chốn lục lâm (Nẻo rừng)
(4) Tuổi thơ lầm lủi
(5) Mưa Huế (Mưa)
(6) Trên đường (Phóng sự)
(7) Gửi người tình (đang sửa tiếp)
(8) Khoảnh khắc đời người
Hà Nội, Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 2013
Kính gửi nhà văn Đỗ Trường!
Đọc bài anh viết về tôi, tôi quá cảm kích và xúc động. Trước hết anh đã hiểu tôi như những người bạn cùng tuổi chơi thân với nhau, hàng ngày cùng bia bọt ở trong nước, thứ nữa anh đã hiểu những tác phẩm tôi viết một cách sâu sắc, chia sẻ cùng tôi những suy nghĩ trăn trở một thời và cả bây giờ những vấn đề lớn lao của đất nước, con người, nhân loại toàn cầu. Với tầm nhìn, tầm nghĩ như anh lại được được tiếp xúc với thế giới rộng lớn bên ngoài, thế giới của những nền văn hóa lớn, nền văn mình vượt xa tổ quốc chúng ta; anh đã phân tích, bàn bạc, nhận định một cách khách quan, trung thực mà nhiều người ở quốc nội vì lý do này, lý do khác không kiến giải hết.
Đỗ Hoàng tại nhà riêng ở Huế
Cám ơn anh vô cùng! Anh đã chia sẻ cùng tôi người cùng họ. Họ mình nhỏ, ít người quá. Tôi ở khắp đất nước cố tìm họ nhưng ở đâu họ mình cũng lưa thưa. Không phải bênh vực, bè phái họ hàng, nhưng họ mình chia sẻ và dựa vào các họ lớn để vươn lên là một điều rất tốt mà con cháu trong họ phải biết. Nó cũng như các dân tộc nhỏ phải dựa vào dân tộc lớn để phát triển; nước nhỏ phải dựa vào nước lớn để tồn tại.
Anh đã khá hiểu tiểu sử của tôi và bi kịch gia đình. Tôi xin thưa thêm vài điều nhỏ để hiểu thêm những năm tháng đau thương của gia đình, quê hương, đất nước.
Ba tôi mất khi tôi mới 8 tháng tuổi, (ngày trước ở quê tôi, con nhà có tý chức sắc thì gọi bố bằng ba, con nhà thấp thì gọi bố bằng bọ), mẹ tôi phải đi xin sửa khắp bà con tản cư ở chiến khu Bang Rợn (Lệ Thủy, Quảng Bình). Tám tháng tuổi thì làm sao biết được chuyện gia đình. Sau này khai lý lịch thì chính quyền địa phương bảo sao khai vậy. Không thể khai như bà con trong họ kể và mẹ tôi kể.
Năm học lớp 9 cấp 3 Lệ Thủy (tương đương lớp 11 bây giờ). Tôi được giới thiệu vào Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam. Muốn vào đoàn thì phải khai lý lịch. Tôi ghi bố: chết.
Không kết nạp được Đoàn. Mãi đến cuối năm, anh Bí thư Chi đoàn lớp bào phải khai rõ ràng: Bố chết vì gì? Tôi phải về hỏi mẹ tôi. Phong tục Việt Nam là xấu che, tốt khoe. Ai lại bảo bố chết trận bao giờ. Mẹ tôi không nói nhưng tôi bảo, trên rộng rãi, họ muốn biết chết vì gì. Và cuối cùng tôi khai : Bố chết trận!
Tôi được kết nạp Đoàn, thành Đoàn viên thanh niên Lao động Việt Nam tại Chi đoàn lớp 9C, trường cấp 3 Lệ Thủy, Quảng Bình (năm học 1966- 1967).
Hai người lính bắn nhau như anh viết chính là chuyện đồn thổi, không có thật. Nhưng hai người lính ấy là hai người chồng của mẹ tôi.
Ba tôi đi lính sang Pháp năm 1939, không phải đánh nhau ở An giê ri mà đánh nhau với Đức Quốc xã khi chúng chuẩn bị vào Pa ri xâm lược Pháp. Cùng đợt ấy có cả bốn bác tôi nữa. Và năm anh em đều bị tù ở Đức.
Ba tôi cùng mấy anh em về nước năm 1946 , hình như cùng chuyến tàu với Bác Hồ. Mấy anh em nghe theo Bác Hồ đều đầu quân đánh giặc. Vì cán bộ quân sự thời Cách mạng tháng Tám năm 1945 hiếm lắm. Nghe nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp biết tên đến đại đội trưởng. Ba tôi là em út nhưng cũng đã lên được Quản thì phải. Các bác lên trước Quản, Đội nhiều năm. Ai cũng đều là cán bộ quân sự tỉnh, huyện Việt Minh, đảng viên, rồi về hưu.
Riêng ba tôi làm đại đội trưởng 361 huyện đội Lệ Thủy, Quảng Bình. Ông Lê Hoản làm Chính trị viên. Hồi ấy Việt kiều trở về nước mới giỏi quân sự, mấy anh thanh niên ở làng biết gì a lô xô, đi ong đơ (đi đều một, hai)…
Ông Lê Hoản là người cùng làng (Thuận Trạch, Mỹ Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) cùng hoạt động Cách mạng thời tiền khởi nghĩa với mẹ tôi, cùng trong Chi bộ, Đảng bộ, cùng cướp chính quyền ở huyện lỵ Lệ Thủy,cùng tham gia tích cực Tuần lễ vàng Mẹ tôi là Bí thư phụ nữ xã Cao Vân, sau đó là Bí thư phụ nữ huyện Lệ Thủy. Mẹ tôi tuy đã có con gái lên 5, 6 tuổi, có chồng đi Pháp bảy, tám năm không biết sống chết thế nào, nhưng ông Hoản vẫn lấy mẹ tôi làm vợ.
(Thời ấy trai tân lấy nạ dòng là chuyện ngược đời.). Anh ruột ông Hoản là Lê Lỵ đã lấy dì họ tôi rồi.
Hai người có với nhau một người con trai (tức là anh cùng mẹ với tôi, hơn tôi mấy tuổi). Nhưng anh mất khi lên chiến khu vì sốt rét.
Khi ba tôi bên Pháp về thì mẹ tôi ở vào tình huống rất khó xử. Trong làng có câu ca:
Hoàng Thị Khê bốn bề ngao ngán (1)
Lê Thị Gắn chắc chắn chồng về (2)
(1) Mẹ tôi
(2) Bác gái ruột của tôi, vợ bác Đội Diệm
Sau nhiều dằn vặt, mẹ tôi trở lại với chồng cũ, bỏ ông Lê Hoản.
Ông Hoản nói ba tôi đã giết chết con ông. Mâu thuẩn địch ta không phải Việt Minh và Pháp mà là giữa Ba tôi và ông Hoản. Ông Đại đội trưởng và ông Chính viên không thể hòa hợp rồi chuyện không hay xảy ra, không biết hư thực thế nào?
Ba tôi chỉ huy quân sự nên chẳng mưu cao như ông Chính trị viên.
Ông Đỗ Đức Triển (Bố của Đỗ Hoàng thời ở Pháp)
Ba tôi có làm thơ:
Con ơi con!
Cha mắc tòng quân qua Pháp
Cho nên chi cha Sở, con Tần
Thương mẹ con trăm phần chi xiết
Nỗi đớn đau này ai có biết?
Giục lòng cha Âu, Á đôi phương…
(Mẹ tôi đọc được một đoạn như vậy- Bài này viết cho chị tôi. Hồi đó tôi chưa sinh)
Đấy là tôi nghe người lớn tốt nói lại vậy thôi, không biết có đúng không xin mọi người lượng thứ.
Khi hòa bình lập lại sau năm 1954, tôi nghe mẹ tôi nói, khi tôi đi vắng, ông Hoản nhiều lần đến tìm mẹ tôi, nhưng mẹ tôi bảo làm nít (vợ bé), mẹ tôi không chịu. Ông còn nói nếu chịu ông sẽ nhận tôi làm con ông để đi học nước ngoài. Mẹ tôi vẫn không chịu!
Chuyện nó như thế anh Trường ạ!
Một lần nữa vô cùng cảm ơn anh đã viết rất đúng về tôi, về dòng họ Đỗ nhỏ và ít của mình trong cộng đồng người Việt.
Chúc anh khỏe viết tốt!
TB: Nhà văn Bảo Ninh nổi tiếng với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh sau khi đọc bài của anh do tôi chuyển đến đã nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm anh và khen bài viết của anh
Đỗ Hoàng
Đỗ Hoàng
Tạp chí Nhà văn
Số : 65, Nguyễn Du, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 0913369652
Về văn xuôi tôi có các quyển sau:
(1) Phí một thời trai
(2) Cuộc chiến vừa tàn
(3) Chốn lục lâm (Nẻo rừng)
(4) Tuổi thơ lầm lủi
(5) Mưa Huế (Mưa)
(6) Trên đường (Phóng sự)
(7) Gửi người tình (đang sửa tiếp)
(8) Khoảnh khắc đời người
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét