Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Xa thắm Trường Sa - Bút ký của Đỗ Hoàng

Xa thắm Trường Sa - Bút ký của Đỗ Hoàng

Chủ nhật - 18/05/2014 17:31
Lts: Trung Quốc đã đặt giàn khoan lên thềm lục địa của nước ta. Đó là cái cớ để cái lưỡi bò của họ liếm dần Biển Đông. Hpàng Sa và Trường Sa là phần đai của Tổ quốc Việt Nam quyết không để mất. Xin giới thiệu bài bút ký Xa thắm Trường Sa của Nhà thơ Đỗ Hoàng viết từ năm 2007 đã gợi mở ra nhiều vấn đề mà tính thời sự hôm nay vẫn thiết thực.
  vannghecuocsong.com

Tôi cũng phát biểu ý kiến đóng góp thu hoạch trong chuyến công tác. Tôi nói: - Ở các lĩnh vực kinh tế tôi không rành lắm chỉ biết Nhà nước tiêu tồn hàng nghìn tỷ đông cho những dự án không đem lại hiệu quả thiết thực, làm hao hụt ngân sách quốc gia. Riêng lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật có nhiều vụ chi ngân sách làm phim bỏ kho, làm tượng đá “ phơi những lối mòn” tốn tiền Nhà nước hàng chục triệu đô la mà không để lại giá trị gì đáng kể, có khi phản nghệ thuật nữa. Số tiền ấy đủ trang bị hoả lực mạnh cho một chốt đảo hay xây một cột ăng ten thu sóng Đài tiếng nói Việt Nam hoặc mua được một  con tàu biển để nối liền các đIểm đảo Trường Sa. Những người ký chi tiền vô bổ ấy cũng đã đến thăm Trường Sa nhiều lần trước đây. Ai cũng hoài nghi là anh em mình thảo luận chắng khác gì gái goá bàn việc triều đình. Những điều tâm huyết sát thực như thế này có đến trời cao hay không?


“XA THẮM TRƯỜNG SA” BÀI ĐOẠT GIẢI THƯỞNG BÚT KÝ VĂN HỌC TẠP CHÍ NHÀ VĂN

 

Tôi đang dự đám cưới con trai của nhà thơ Trần Ninh Hồ thì nhận được điện thoại của chị Hương trên Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương gọi vào máy di động của tôi ( Số máy liên lạc được ghi trước trong hồ sơ đăng ký đi Trường Sa). Tôi chưa hề gặp chị nhưng nhận ra ngay chất giọng mềm mại , ấm áp của người Hà Nội đã nhiều lần liên lạc, thông báo với tôi về việc chuẩn bị đi Trường Sa. Chị bảo : 10 giờ ngày 2 tháng 4 năm 2007 anh phải có mặt tại Vùng 4 Hải quân, Cam Ranh để đi Trường Sa.

Chị nói tiếp: - Anh cho tôi số fax , tôi sẽ gửi thông báo và giấy mời sau. Tôi trả lời với chị là đang dự đám cưới, hẹn chị về cơ quan tôi sẽ cho chị số fax. Chị đồng ý. Chị Hương dặn thêm: Đây là công việc hết sức bí mật không được gọi điện và báo địa đIểm sẽ dến cho ai !  Tôi chấp hành. Về cơ quan tôi gọi cho chị Hương báo số fax để liên lạc. Đợi mãi vẫn không thấy chị Hương fax về, tôi suốt ruột điện hỏi chị vì đã mua lỡ vé tàu rồi. Chị Hương trả lời: - Thông báo này bí mật nên không thể gửi qua máy fax, sẽ có người mang đến tận tay cho anh. Quả vậy, gần cuối chiều 28 tháng 3, tôimới được nhận thông báo thay cho giấy mời do người của Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương đưa tới.

Lần này Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung Ương cử 2 đoàn đi Trường Sa. Đoàn 1 gồm 8 người xuất phát tại Quân cảng, Tân Cảng Sài Gòn. Đoàn 2 gồm 11 người xuất phát tại Quân cảng Cam Ranh. Tôi thuộc đoàn 2. Ông Vũ Hồng Thanh trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh Bến Tre, trưởng đoàn ốm không đi được, chị Nguyễn Thị Trà Vinh biên tập viên Trung tâm Dữ kiện-Tư liệu TTXVN cũng vì lý do không đi được. Ông Đặng Hoài Dũng, Trưởng Ban Tuyên giáo tỉnh An Giang được đề cử làm trưởng đoàn 2.

 Danh sách đề cử người đi Trường Sa đã chuẩn bị từ cuối năm 2006. Người được cử  đi phải làm hồ sơ lý lịch. Tôi thầm nghĩ : Đi nước ngoài còn không làm hồ sơ lý lịch, đi công tác trong nước mắc gì  mà phải làm hồ sơ lý lịch. Ai vượt biên được đâu? Lúc ấy tôi chưa hiểu tình hình Trường Sa đang có sự tranh chấp khá quyết liệt của nhiều quốc gia nằm trong vùng biển quần đảo này nên mới có những ý nghĩ như vậy!
       Anh Đỗ Kim Cuông ở trên Ban tư tưởng- Văn hoá Trung ương bảo tôi: - Ai qua biển Đông, nơi Vùng 4 Hải quân bảo vệ, họ đều phải biết lý lịch. Hoàng ạ, mình ở Phú Khánh hơn mười năm mà chưa đi được, vì ở dân sự rất ít người được đi Trường Sa, nên may mắn có dịp này Hoàng đi đi! Tôi nghe ra và chuẩn bị tinh thần đi Trường Sa!
       
Đến thị xã Cam Ranh, tôi gọi xe ôm vào Vùng 4 Hải quân. Qua cổng một chẳng ai hỏi. Đến một chỗ không có biến chắn nào hết thì bị chặn lại. Một người lính hải quân đội mũ và áo bướm binh chủng chặn tay xe ôm và mời tôi vào doanh trại. Tôi trả tiền cho người xe ôm để anh ta về thị xã kiếm sống, còn tôi ngồi chờ người lính gọi lên cấp trên.
  Một thiếu uý mang sắc phục Hải quân chạy xe hon đa 50 đến chở tôi vào vọng gác chính. Tôi đưa thông báo thay giấy mời của Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương số 77, mật . Trên tít đề là Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội ngày 28 tháng 3 năm 2007. Một trung tá trực ban nhẹ nhàng bảo tôi : - Đã nghe thông báo của trên. Anh chờ một lát sẽ có xe chở anh tới địa điểm tập kết. Trung tá trực ban gọi điện, người thiếu uý lúc nảy lại chở tôi đến một doanh trại mới. Đó là Ban ngoaị vụ của Vùng 4 Hải quân. Đợi một lát quảng gần 10 giờ đại biểu các đoàn thể dân sự cũng tụ tập đông đủ. Có cả sinh viên ttường Đại học Văn hoá nghệ thuật Quân đội nữa. Sau đó có mấy chiếc xe ca chở mọi người ra Quân cảng Cam Ranh.
             Tôi tranh thủ tìm đọc các tài liệu nói về Trường Sa để hiểu thêm quần đảo này vì trước đó mình chỉ biết loáng thoáng.
        Trường Sa cũng như Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được tổ tiên gìn giữ từ lâu đời. Năm 1975, giải phóng miền Nam, Trường Sa trở về với Tổ quốc thống nhất. Quần đảo Trướng Sa được gọi nhiều tên như Hằng Sa, Đông Sa, Bãi Cát Vàng... Khu vực này là nơi sinh ra các cơn bão Biển Đông nên còn gọi là quần đẩo bão tố. Quần đảo Trường Sa gồm hơn 100 đảo, bãi đá, bãi cạn, bãi ngầm diện tích khoảng 180 nghìn kilômét vuông nằm ở phía Đông - Đông Nam bờ biển Nam Trung Bộ. Phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa phía Đông giáp vùng biển Philippin, phía Nam giáp vùng biển Malaixia,Brunây, Inđônêxia, phia Tây là vùng lãnh hải của ta. Từ trung tâm quần đảo Trường Sa đến đến vùng biển Malaixia khoảng 250 hải lý, đến vùng biển Philippin khoảng 210 hải lý, đến vùng biển Brunây khoảng320 hải lý, đến đảo Hải Nam khoảng 600 hải lý, đến Đài Loan khoảng 900 hải lý, trong giới hạn vĩ độ 6o 30’N đến 12o  O’N và từ 111o 30’ E đến 117o 30’ E.
  
  Trường Sa chỉ có 23 đảo và bãi san hô nhô lên khỏi mặt nước. Thực chất đó là những đỉnh nhô cao của một cao nguyên ngầm với tổng diện tích khoảng 414 000 km2. Đảo lớn nhất trong quần đảo là đảo Thái Bình ( Ba Bình) có diện tích 0,6 km2, tiếp theo là các đảo Song Tử Tây, Trường Sa, Nam Yết, diện tích mỗi đảo khoảng 0,1 đến 0,2 km2. Độ cao các đảo không lớn, khi nước thuỷ triều lên , những đảo có bình độ lớn nhất cao trên mặt nước chừng 1.5 đến 2 mét; khi thuỷ triều xuống thấp nhất độ cao của các đảo so với mặt biển cũng chỉ từ 2 đến 5 mét. Có khoảng 18 đảo thuỷ triều không ngập là dân có thể ở được. Thực vật ở quần đảo Trường Sa có hai nguồn gôc: một là cây mọc tự nhiên như cây bàng vuông, cây tra, muống biển,  cây phong ba, ( dân tự đặt), cây bẫo táp (dân tự đặt); cây do người mang từ đất liền ra như dừa,phi lao, cây giàu,ớt tỏi, cây cảnh… Hàng năm Trường Sa có 131 ngày có gió mạnh từ cấp 6 trở lên. Mỗi tháng có từ 13 đến 20 ngày gió mạnh. Chỉ tháng 4 là ít gió mạnh. Nhiệt độ quanh năm đều trên dưới 30oC. Trường Sa là vùng có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt.
  Vị trí chiến lược của Trường Sa hết sức quan trọng. Nó án ngữ đường hàng hải quốc tế nối liền Thái Bình Dương với Ân độ Dương và Đại Tây Dương, giữa Châu Âu, Châu Phi, Trung Cận Đông, Trung Quốc và Nhật Bản với các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Là một tuyến đường huyết mạch có lưu lượng tàu thuyền tấp nập vào ra hàng thứ 2 trên thế giới ( chỉ sau Địa Trung Hải). Trung bình một ngày có từ 250 đến 300 tàu biển các loại đi qua Biển Đông.
  Về quân sự, quần đảo Trường Sa là lá chắn quan trọng bao quanh vùng biển và dải bờ biển Nam Trung Bộ và Nam Bộ bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Sự liên kết giữa các đảo, cụm đảo, tuyến đảo thành một hệ thống cứ đIểm tiền tiêu để ngăn ngừa và đẩy lùi các hoạt động trtanh chấp, lấn chiếm của tàu thuyền nước ngoài. Vì thế quần đảo Trường Sa luôn được các nhà quân sự, khoa học, chính trị đánh giá cao.

  Trường Sa từ lầu đời đã là lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam. Trong các tài liệu và bản đồ cổ của Việt Nam và của nước ngoài đã ghi rõ quần đảo Trường Sa là lãnh thổ và nằm trong hệ thống địa lý hành chính của Việt Nam. Bản đồ của xứ Đàng Trong do Bùi Thế Đạt vẽ năm 1774 và Đại Nam nhất thống chí vẽ năm 1838 thì Bãi Cát Vàng (tức là Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam. Với tư cách là chủ nhân đất nước, Nhà nước Việt Nam trong nhiều thế kỷ đã giữ gìn bảo vệ một phần biển đảo thiêng liêng của Tố quốc.                        
               Trước khi rời đất liền, Lãnh đạo Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân tổ chức họp mặt thông báo tình hình Trường Sa và lãnh đạo Đoàn công tác cho mọi người biết. Trung tướng Bùi Văn Huấn, Uỷ viên Trung Ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam làm trưởng đoàn, Chuẩn đô đốc, Chính uỷ quân chủng Hải quân Trần Thanh Huyền làm phó đoàn. Đại tá Chính uỷ Vùng 4 Hải quân Nguyễn Đức Long chỉ huy hành quân. Đoàn công tác có 135 người, phục vụ 69 người, tổng cộng là 204 người. Cuộc họp điểm mặt chu toàn, vui vẻ. Bữa liên hoan và cuộc tiễn đưa Đoàn đến Trường Sa lên đường theo nghi lễ Hải quân hết sức long trọng. 
   Chiếc tàu HQ 996 chở Đoàn đi với dòng chữ nổi bật: “Nhiệt liệt chào mừng Đoàn công tác bộ Quốc phòng và các đồng chi đại biểu đi thăm và kiểm tra quần đảo Trường Sa 04 – 07”.
  Chúng tôi lên tàu nao nức hồ hởi. Sau đó đi tìm nơi nghỉ.Tôi giật mình khi thấy tên, chức danh của mình và nhiều đồng nghiệp khác đã ghi săn ở phòng ngủ. Chao ơi, bộ đội Hải quân làm công tác quản lý và tổ chức kỹ lưỡng không chê vào đâu được.
  Quảng hơn 6 giờ chiều tàu rú còi nhổ neo ra khơi. Quân cảng Cam Ranh đẹp như một bức tranh thuỷ mạc cổ. Biển xanh, trời xanh, nuí xanh lộng lẫy trong màu hoàng hôn bát ngát dần dần lùi xa. Tôi thấy lòng mình xuyến xao lúc rời đất cảng, chạnh nghĩ những chiến sỹ đi công tác lâu dài ngoài biển cả họ bâng khuâng lưu luyến biết nhường nào khi rời đất liền. Khoảnh khắc đẹp này tôi lại nhớ đến bài hát “Tâm tình người thuỷ thủ” của Hoàng Vân phổ nhạc bài thơ cùng tên của nhà thơHà Nhật nổi tiếng một thời“Tạm biệt em yêu/ Vẫy chào thành phố cảng thân yêu/ Em ơi, chớ hỏi anh rằng, anh nhiều/ Vì sao xa khơi kia có những gì kêu gọi anh! Nhổ neo ra khơi anh biết rằng nếu ở cuối trời có những hòn đảo xinh tươi đầy châu báu/ Hay có nàng thiếu nữ với đôi môi hồng như san hô/ Vẫn không thể làm anh xa được em yêu!”
   Đêm đầu tiên trên biển, mọi người thức rất khuya, ai cũng lên bong tàu, mũi tàu ngắm nhìn trời nước của Tổ quốc xa xôi, rộng dài. Và cuộc giao lưu văn nghệ giữa quân dân rất sôi nổi ấm cúng, đậm đà. Sinh viên nghệ thuật biểu diễn hết mình, các bậc lãnh đạo cao niên cũng tham gia hát những bài ca mình yêu thích.
  Đến sáng ngày thứ ba khi ánh bình mính hồng lựng phía chân trời thì hòn Trường Sa lớn đã mờ thấp thoáng trong khói sương. Ai có máy ảnh đều lên bong tàu, mũi tàu tranh thủ chớp lấy nét đẹp hiếm có của một phần đất đai của Tổ quốc.
   Vì thời gian eo hẹp, vì các đảo nằm xa cách, nên Đoàn công tác được chia thành nhiều nhóm để đi các đảo. Nhóm đi đảo Đá Lát, nhóm lên đảo Trường Sa lớn. Tôi được lên đảo Trương Sa lớn. Phút đón tiếp đại biểu của các chiến sỹ trên đảo Trường Sa lớn cũng đầy cảm động và long trọng bằng nghi lễ Hải quân không kém lúc tiễn đưa Đoàn từ  Quân cảng Cam Ranh ra biển. Tôi càng xúc động hơn khi nhìn người thật, biết việc thật của những con người dạn dày sóng gió, dám hy sinh bám trụ trên biển đảo, bảo đảm yên bình cho biển trời. Mình như được trở lại quân ngũ sống những ngày trận mạc hiểm nguy của những ngày đánh Mỹ nhưng thật hào hùng, nghĩa hiệp của anh bộ đội cụ Hồ.
 
  Trường Sa lớn là thủ phủ của huyện đảo Trường Sa. Trụ sở của Uỷ ban nhân huyện đóng gần các doanh trại quân đội. Nhà cửa trên đảo rất khang trang không thua đất liền là bao. Có nhà lầu, có hội trường lớn nhỏ. Công trình vệ sinh: giếng nước, nhà tắm sạch sẽ khang trang. Nhìn các công trình xây cất trên Trường Sa mới biết Đảng và Chính phủ đã dầu tư bao nhiêu tiền của mới được như hôm nay. Bỡi vì ta biết xây một cái nhà hai tầng trên Đảo độ 100 m2 thì bằng xây một khu phố trên đất liền. Bao nhiêu máu quân dân đổ ra để được như hôm nay. Khi chúng tôi đến thì  huyện đảo Trường Sa đang tổ chức lễ kỷ niệm 32 năm ngày giải phóng quần đảo Trường Sa ( 29 – 4 – 1975 _ 29 – 4 – 2007) và tuyên truyền học tập nội dung, thể lệ bầu cử Quốc hội khoá XII vào ngày 20-5- 2007 sắp tới. Ông Tạ Trung Đức, đảo phó, Bí thư Đảng uỷ, tổ ttưởng tổ bầu cử đang họp mật cử tri nói về quyền lợi và nghĩa vụ công dân khi cầm lá phiếu. Việc làm này của huyện đảo Trường Sa đã được đưa lên trên báo chí và các cơ quan truyền thông khác từ nhiều năm trước. Trong đất liền sự kiện này là bình thường nhưng ở Trường Sa là một sự kiện nổi bật. Hơn 63 cử tri đều hồ hởi lắng nghe học tập thể lệ bầu cử Quốc hội. Tôi hỏi anh Trần Văn Thăng:- Anh hiểu ý nghĩa, nội dung bầu cử Quốc hội, quyền lợi, nghĩa vụ của người cử tri chưa?  Trần Văn Thành là chiến sỹ sinh năm 1982 quê ở Quỳnh Ngọc, Quỳnh Phụ, Thái Bình ra Trường Sa 7-2006. Thăng đáp: -  Tôi biết 2 tháng nữa sẽ bầu cử Quốc hội khoá XII, tôi thấy cuộc bầu cử có nhiều ý nghĩa quan trọng với nước ta ở thời kỳ đổi mới, hội nhập. Bầu cử Quốc hội thể hiện quyên dân chủ của một công dân để chọn người xứng đáng lo việc nước. Tôi hoàn toàn thông suốt và tự hào khi cầm là phiếu đI bầu. Vinh dự hơn nữa mình là người chiến sỹ Trường Sa  được đi bầu cử . Tôi cười:- Bạn nói khá sách vở đấy. Thành đáp: -Không phải, em hiểu từ tấm lòng của em! Đây là lần đầu tiên em được đi bầu cử.
   Rời tổ bầu cử, tôi tìm gặp anh em chiến sỹ của Trạm ra đa 11. Ngày 12 tháng 12 năm 2000, Trạm ra đa 11 được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang trong thời kỳ đổi mới. Trạm ra đa 11 thuộc D 292, F 377, Quân chủng Phòng không – Không quân có bề dày trong kháng chiến chống Mỹ và làm nghĩa vụ quốc tế ở Cămpuchia. Ngày 17-3-1988 khi xảy ra sự đụng độ ở Trường Sa với nước ngoài thì đơn vị được lệnh hành quân ra đảo. Từ đó đến nay 19 năm làm nhiệm vụ trên đảo, mặc dù vũ khí, khí tài cũ, sử dụng nhiều năm hỏng hóc nhưng đơn vị vẫn liên tục sẵn sàng trực chiến bảo đảm chiến đấu 24/24giờ, quản ly tốt các mục tiêu bay qua khu vực.
     Năm 2006, đơn vị đã kịp thời bắt và phát hiện 76 mục tiêu (tốp) bay qua khu vực Trường Sa. Đơn vị đã nhanh chóng phối hợp với các đơn vị phối thuộc trên đảo để bắt và kiểm soát các mục tiêu. Khương Công Vũ, thiếu tá Trạm trưởng, cho biết : - Qua 19 năm đơn vị liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, chi bộ trong sạch, đơn vị vững mạnh toàn diện đạt danh hiệu quyết thắng. Về khó khăn thì nhiều khó khăn lắm, nào khí tài đã cũ, thời hội nhập máy bay, tàu thuyên xâm nhập liên tục, cường độ làm việc của cán bộ chiến sỹ căng thẳng. Mùa mưa bão tàu thuyền ít ra nên đời sống của anh em thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Tình cảm thì quá thiếu thốn.
    Tôi biết Trường Sa không có bóng con gái. Phụ nữ chưa đến sống lâu dài với đảo.
Thảng hoặc có văn công nữ, chị em các cơ quan đát liền ra thăm vội vàng rồi trở về để lại nỗi mơ mòng, tơ tưởng cho cán bộ, chiến sỹ mà thôi!
 Tôi đồng cảm những day dứt suy tư của các chiến sỹ. Ngày dánh Mỹ ở biền biệt mười năm trong núi rừng, những vùng rừng không dân. Cả nước đều hy sinh như vậy nên sự hy sinh của bộ đội cũng như mọi người. Nay đất nước thanh bình mọingười ai cũng được vui hưởng thụ mà chiến sỹ hy sinh cả vật chất lẫn tình cảm thì điều này ai cũng phải day dứt, băn khoăn. Nhưng quân đội mình thì khác quân đội một số nước. Anh bộ đội phải biết hy sinh trước tiên. Thời chiến tranh chống Mỹ ở trên chốt nhìn qua các đồn địch cứ cuối tuần Mỹ cho máy bay trực thăng chở gái các thành phố lên cho lính giải trí. Qua ống nhòm thấy lính Mỹ, nguỵ chực sẵn ở bãi, hễ có cô gái trần truồng nào ra khỏi máy bay là chúng bu đến như ruồi, mỗi đứa ẵm mỗi con điếm chạy vù vào các hầm hào công sự. Thủ trưởng của tôi tức quá chưởi thề: - Đụ mạ, chúng mày hưởng lạc như thế sẽ thua chúng tao!           Nguyễn Ngọc Giang, thiếu tá Chính trị viên Trạm ra đa 11 trầm tĩnh hơn: -Gian khổ như vậy, nhưng chúng tôi lấy hoàn cảnh xa vợ, xa con của mình ra để động viên cán bộ, chiến sỹ yên tâm công tác, khỏi phụ lòng cả nước lo cho Trường Sa, hướng về Trường Sa!                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  Tranh thủ phút ít công việc, tôi gặp đảo trưởng Nguyễn Bạch Dương. Tôi nhận ra anh vì có một lần chương trình VTV3 phát hình anh.  Nguyễn Bạch Dươngngười gọn nhỏ, da sạm nắng biển. Trong anh rất thư sinh thế mà anh ra đảo từ đầu năm 2005 và chỉ huy một đảo lớn. Đảo duy nhất có sân bay trên Trường Sa của ta. Anh quê ở Vĩnh Chấp, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Vợ dạy trung học cơ sở và hai con đều ở trong đất liền. Anh báo cáo vắn tắt kết quả thực hiện nhiệm vụ của Đảo:
  - Năm 2006, kết hợp với Trạm ra đa 11, Đảo đã quan sát phát hiện kịp thời cac mục tiêu trên không: 8 887 tốp. Đáng chú ý trong năm 2006 có 16 lượt máy bay Trung Quốc, Philíppin bay qua Đảo ở độ cao thấp; phát hiện các mục tiêu trên biển: gồm 621 lượt tàu bè, riêng tàu quân sự Trung Quốc là 2.
  Đảo đã chủ động xây dựng, bổ sung kiện toàn đầy đủ các kế hoạch, phương án chiến đấu, củng cố hầm hào công sự, đường cơ động đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Anh Nguyễn Bạch Dương thay mặt Đảo có mấy đề xuất:
Đề nghị cấp trên quan tâm hơn nữa về vật chất phục vụ nâng cao đời sống bộ đội như bàn ghế, tủ gường, đài casset, radio. Tăng lượng phát sóng, tuyên truyền nhiều hơn về quần đảo Trường Sa và người lính đảo. Tạo điều kiện thuận lợi học tập, học nghề cho các chiến sỹ khi hết nghĩa vụ  ở Trường Sa.
Đây là những yêu câu rất khiêm nhường mà đồng chí Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhan dân Việt Nam lắng nghe và ghi nhận.
  Sau đó tôi theo các đồng chí Trưởng, phó đoàn và các đại biểu đi thăm hầm hào. cơ sở chiến đấu của Đảo. Là người lính trải qua chiến đấu, tôi vô cùng sửng sốt cảm phục trước các hệ thống phòng ngự mà bộ đội công binh hải quân xây dựng. Với hệ thống phòng thủ này, với tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sỹ, chắc chắn không có một thế lực ngoại xâm nào lấn chiếm biển đảo của ta.Tuy thế nhưng hoả lực của mình thì quá cũ và quá yếu. Không biết còn cất dấu ở đâu, chứ  cái tôi nhìn được như xe tăng thì có từ trước cả thời chống Mỹ, súng cối 60, cối 82 cũng đã quá cũ. Súng phòng không càng cũ hơn. Súng 12ly7( thường gọi là 12 ly vác), bộ đội không dùng chỉ cho dân quân du kích sử dụng cũng thời chống Mỹ giỡ cũng có trên bệ pháo. Súng cá nhân AK báng gỗ, AK báng gập của thời tôi nhập ngũ thập kỷ 70, nay các chiến sỹ vẫn cầm tay. Tất cả các vũ khí cỗ lỗ này các chốt trên các đảo Trường Sa đều sử dụng. Thời hiện đại tên lửa tomohow, súng bắn lade, tên lửa vượt mặt trăng thì trang bị vũ khí của bộ đội ta quả quá là “khiêm tốn”. Điều này Đảng và Nhà nước phải biết chứ không thể lấy xương thịt đọ với mãi với sắt thép của quân thù!
   Tối ngày 4 – 4- 22007 dự lễ mít tinh kỷ niệm32 năm ngày giải phóng quần đảo Trường Sa xong, Đoàn công tác lên tàu đi đảo Đá Tây. Đảo Đá Tây nằm ở phía Nam quần đảo Trường Sa, toạ độ 8o 52’ vĩ độ Bắc, 111o 21’ kinh độ Đông cách đảo Trường Sa lớn 22 hải lý về phía Đông Bắc. Đây là một trong những dảo có vị quan trọng trên quần đảo. Đảo Đá Tây có hình dạng quả trám, bao quanh có long hồ rộng rất thuận lợi cho các tàu thuyền nhỏ vào neo đậu khi gió bão lớn. Tàu đi chưa đến một đêm thì tới đảo Đá Tây. Các đại biểu, cán bộ lần lượt xuống xuồng để lên đảo.
  Quân và dân đảo Đá Tây đang triển khai thí điểm nuôi trồng hải sản. Ông Vũ Văn Tám thứ trưởng Bộ Thuỷ sản thành viên của Đoàn công tác cho tôi biết: “ Bộ Thuỷ sản đang triển khai xúc tiến nuôi trồng thuỷ sản ở Trường Sa. Tổng Công ty Hải sản Biển Đông phối hợp với Tổng Công ty Trườg Sa làm thí điểm nuôi cá lồng trên các đảo. Đá Tây là điểm nuôi cá lồng được bộ Thuỷ sản đầu tư khá lớn.  Xây nhà thí nghiệm, ăn ở, lồng cá trên 100 tỷ đồng ngay canh đảo Đa Tây.Dự kiến đây sẽ là Trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá phía Nam Trung Bộ. Bộ Thuỷ sản và các đơn vị thành viên học tập kinh nghiệm đã triển khai ở các đảo Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, tổ chức đăng ký kiểm tra tàu thuyền đến thàng 4 – 2007 cơ bản đã hoàn thành, khuyến khích, tài trợ cho ngư dân đẩy mạnh đánh bắt khai thác hải sản.”
  Bộ Thuỷ sản đã có những tầm nhìn chiến lược. Trước đây quần đảo Trương Sa phong phú hải sản nhưng sau ba mươi năm cả ta cả nhiều quốc gia khác người ta khai thác nguồn lợi thuỷ sản vô tội vạ, phản khoa học nên thuỷ sản gần như cạn kiệt.
Nhiều chiến sỹ Trường Sa kể rằng: - Trước đây nhúng tay xuống biển cá chạy tới đặc kìn như cá để trong bể. Thế mà giỡ chẳng thấy con nào. Vài con bơi lượn lờ từ ngoài xa. Ngư dân của ta phải đi qua đánh bắt  vùng biển của Philíppin, Inđônêxia, Malaxia, Brunây. Trước đây họ đuổi nay thì họ bắt thật, sau đó  đục thủng song nồi rôi trả về bằng đường đại sứ quán.Thế nhưng vì đói khổ ngư dân vẫn lẻn đánh bắt trộm. Đến đâu thì đến có chết cũng thôi.
   Thượng tá Thái Hồng Bình, Phó giám đốc Công ty Hải sản Trường Sa cho biết: “ Tiềm năng nuôi trồng hải sản ở Trường Sa là rất lớn. Muốn làm tốt việc này trước hết phải làm tốt khâu dịch vụ nghề cá, đặc biệt chú trọng nước ngọt, xăng dầu, cầu cảng để bà con ra vào thuận lợi trong viêc khai thác đánh bắt hải sản. Thứ nữa là phải có chính sách đãi ngộ thu hút đội ngũ kỹ sư thuỷ sản trẻ để họ đến công tác lâu dài ở Trường Sa cho họ thử sức, thử tay nghề và nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
        Các Tổng Công ty Hải sản triển khai việc nuôi trồng hải sản trên Trường Sa tuy có muộn và chưa ra tấm, ra móm gì nhưng dẫu sao có vẫn hơn không. Đây là việc làm có ý nghĩa quốc kế dân sinh và ý nghĩa chiến lược phòng thủ bảo vệ chủ quyền quốc gia về biển đảo hết sức quan trọng.
  Ông Vũ Văn Tám cũng nói thêm: - Cái chính là phục vụ dân . Trước mắt không nên tinh lỗ lãi, có chính sách thu mua ngay tại Trường Sa, có chính sách trợ giá cho người khai thác, nuôi trồng thuỷ sản.
  Hiện Đá Tây đã nuôi 2 bè lồng cá ngựa trên 12 000 con và 1 lồng bè cá mú: 10 000 con. Đó cũng là một tín hiệu đáng mừng cho ngành Thuỷ sản
  Trung uý Nguyễn Văn Pha, một kỹ sư thuỷ sản trẻ tuổi vừa mới tốt nghiệp đại học tình nguyện đến với Trường Sa để làm công tác nghiên cưu khoa học nuôI trồng thuỷ sản . Anh nói: Vẫn biết ra Trường Sa thì điều kiện nghiên cứu, vật dụng làm thí nghiệm khó khăn hơn đất liền nhưng bù lại là anh có thực tế cuộc sống phong phú giúp anh hoàn thành những đề tài từng ấp ủ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
  Tôi hỏi: - Có ai ra cùng anh không?
  Anh Pha đáp: - Cả khoa học chỉ một mình tôi ra mà thôi.
  Tôi tiếp: - Buồn nhiều không?
Anh Pha trả lời: - Lúc đầu thì buồn, vì 3 tháng mới có tàu ra tiếp tế một lần, sách báo tin tức gia đình đều đến chậm lắm. Nhưng dần dần thì nguôi ngoai đi. Công việc cuốn hút nên cũng tạm quên nỗi buồn.
Nguyễn Văn Pha cũng như bao chiến sỹ Trường Sa khác họ đã biết hy sinh những nhu cầu cá nhân để phục vụ sự nghiệp chung của Tổ quốc.
Gương dấn thân của kỹ sư Nguyễn Văn Pha cũng giống gương sáng của trung uý bác sỹ quân y Nguyễn Quang Đạo tổ trưởng tổ quân y trên đảo Phan Vinh.
 Đạo tốt nghiệp Học viện Quân y hệ đa khoa. Vừa cưới vợ xong là xung phong ra Trường Sa công tác. Đây không phải làm việc làm nông nổi, anh hùng rơm mà là một tấm gương sống và cống hiến của thế hệ trẻ.  Vì gia đình Đạo là gia đình trí thức. Bố là bác sỹ công tác trong ngành công an. Anh là thạc sỹ y khoa đang giảng dạy tại Học viện Quân y. Vợ là cán bộ ngân hàng, gia đình có vị thế xã hội. Tìm một công việc an nhàn trong quân đội đối với Đạo không khó. Nhưng anh nói: - Thế hệ cha anh biết cống hiến cho đất nước, anh ruột tôi cũng đã có 2 năm ( 2001- 2003 ) công tác tại Trường Sa, lẽ nào thế hệ mình chỉ ngồi hưởng thụ. Đạo lên đường không một đắn đo suy tín thiệt hơn. Dù người thân, bạn bè và cả anh nữa đều biết công tác ở Trường Sa là gian nan, khốn khó, có khi phải chiến đấu hy sinh. Nhưng đã xác định trước, Đạo nhận công tác và làm việc không biết mệt mỏi.
Từ năm 2006 đến nay, Đạo đã mổ thành công 4 ca cấp cứu ruột thừa ngay ở đảo Phan Vinh. Hai trường hợp là của quân đội, hai trtường hợp là của dân thường là bà con đi đánh cá trên biển xin vào cấp cứu. Trên Trường Sa các đảo cũng có nhiều bác sỹ nhưng chưa bác sỹ nào dám mổ. Mổ thành công trên đảo là chuyện phi thường, Bỡi trong đất liên đầy đủ tuốc men, dụng cụ mà có khi còn sơ sẩy, huống hồ ngoài đảo cách đất liền hàng nghìn dặm. Việc làm của Đạo đã để lại nhiều tình cảm mến yêu trong quân đội và nhân dân. Tấm gương sáng của trung uý bác sỹ Nguyễn Quang Đạo, trung uý kỹ sư Nguyễn Văn Pha và nhiều cán bộ chiến sỹ Trường Sa khác nở đẹp như hoa san hô hồng trên biển đảo. Họ làm cho trang sử Trường Sa thêm thắm tươi! Quân đội, nhân dân cả nước

Họ làm cho trang sử Trường Sa thêm thắm tươi! Quân đội, nhân dân cả nước tự hào về họ, về thế hệ trẻ hôm nay biết cống hiên tuổi xuân, trí tuệ, sức lực cho sự sống còn lâu bền của Tổ quốc. Rời đảo Phan Vinh, đảo mang tên người anh hùng, thuyền trưởng tàu không số trong thời kỳ chống Mỹ, tàu HQ996 chở Đoàn công tác dến đảo An Bang. Đảo An Bang là đảo quanh năm sóng to gió lớn. Lãnh đạo Đoàn chỉ cho một số ít cán bộ chiến sỹ hải quân có kinh nghiệm theo xuồng đem quà, tặng phẩm vào đảo. Anh chị em văn công đành phải đứng hát trên tàu qua máy bộ đàm tặng các chến sỹ đảo An Bang. Nhiềungười vừa hát, vừa khóc. Tình cảm quân dân thật là sâu đậm. Rồi đoàn phải chia tay các chiến sỹ đảo An Bang trong làn sóng điện.
Trước khi về Bà Rịa – Vũng Tàu, ông Đặng Hoài Dũng tổ trưởng tổ công tác đoàn 2 thuộc Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương triệu tập họp  tổ để nhận xét, rút kinh nghiệm  chuyến đI và đề đạt ý kiến lên cấp trên do yêu cấu của Ban trước khi đi Trường Sa.
Những ý kiến tựu trung là: - Du lịch chưa vào cuộc. Trường Sa sẽ là địa danh du lịch nối tiếng, kể cả du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm. Ngành du lịch phải có tầm nhìn quốc tế, có chiến lược vỹ mô để khai thác tiềm năng du lịch Trường Sa. Ngành Thuỷ sản đã bắt đầu triển khai nhưng nhỏ giọt cò con, mang tính chất thí nghiệm là chính. Nguy cơ thuỷ sản Trường Sa cạn kiệt. Nếu không đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản thì Trường Sa là một biển chết. Các phát minh khoa học chưa được áp dụng. Như việc trồng rau xanh bằng dung môi đã được triển khai hơn 10 năm trong đất liền nhưng chưa áp dụng cho các chiến sỹ trên biển đảo. Họ vẫn phải trồng rau màu trong các xô nhựa ,thau, chậu cảnh. Cần phải hiện đại hoá trang bị vũ khí cho bộ đội. Khi cụ, khí tài, vũ khí, đạn được đã cũ kỹ lại còn lạc hậu. Cần trang bị cho mỗi đảo hai xuồng máy để liên lạc, ứng cứu, tác chiến và làm các công tác hữu ích khác. Mười năm trở lại đây Trường Sa chưa có đổi thay gì nhiều. Đảng và Nhà nước phải có đội ngũ tư vấn tham mưu tốt để không cấp kinh phí cho nhiều dự án, công trình nghiên cứu khoa học không có hiệu quả, không khả thi, tập trung kinh phí đầu tư cho Trường Sa. Với sự tranh chấp của các nước và sự đầu tư của họ, Trường Sa sẽ mất uy thế chiến lược!
Tôi cũng phát biểu ý kiến đóng góp thu hoạch trong chuyến công tác. Tôi nói: - Ở các lĩnh vực kinh tế tôi không rành lắm chỉ biết Nhà nước tiêu tồn hàng nghìn tỷ đông cho những dự án không đem lại hiệu quả thiết thực, làm hao hụt ngân sách quốc gia. Riêng lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật có nhiều vụ chi ngân sách làm phim bỏ kho, làm tượng đá “ phơi những lối mòn” tốn tiền Nhà nước hàng chục triệu đô la mà không để lại giá trị gì đáng kể, có khi phản nghệ thuật nữa. Số tiền ấy đủ trang bị hoả lực mạnh cho một chốt đảo hay xây một cột ăng ten thu sóng Đài tiếng nói Việt Nam hoặc mua được một  con tàu biển để nối liền các đIểm đảo Trường Sa. Những người ký chi tiền vô bổ ấy cũng đã đến thăm Trường Sa nhiều lần trước đây. Ai cũng hoài nghi là anh em mình thảo luận chắng khác gì gái goá bàn việc triều đình. Những điều tâm huyết sát thực như thế này có đến trời cao hay không?
Ngày mồng 9 – 4 - Đoàn công tác đến Nhà Giàn DK1, 14 thuộc khu vực tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Nhà Giàn kết cấu như giàn khoan giếng dầu nhưng nhỏ hơn. Các cột thép đóng sâu xuống đáy biển từ 20 đến 25 mét. Từ đáy biển lên mặt nước biển độ 15 mét, từ  mặt nước biển lên phòng ở là 25 mét. Như vậy tổng chiều cao cột thép là phải 65 mét. Theo thiết kế Nhà Giàn chịu được bão cấp mười. Khu vực Bà Rịa - Vũng Tàu  trước đây có 19 Nhà Giàn nhưng do bão gió nay 4 Nha Giàn bị đổ, 13 cán bộ chiến sỹ hy sinh. Nay còn lại 15 Nhà Giàn. Khu vực Nhà Giàn do Lữ đoàn 171 ( thuộc Vùng 4 Hải quân) quản lý với nhiệm vụ bảo vệ các trọng đIểm kinh tế và hoạt động kinh tế, dịch vụ.

Chiều 8 –4 –2007 Đoàn công tác tổ chức lễ tưởng niệm 13 cán bộ chiến sỹ hy sinh trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực Nhà Giàn DK1 năm 2006. Buổi lễ tổ chức chu đáo theo nghi thức của người đi biển. Khi vòng hoa thả xuống đại dương, tất cả mọingười ai có quà gì thì thả xuống biển để tưởng nhớ các hương hồn liệt sỹ. Người thì thả gói thuốc, người thì thả đồng bạc, cóngười cẩn trọng mang sẵn nắm đất trong đất liền thả xuống biển. Tôi cũng thả chiếc lược và mấy đồng bạc cho các liệt sỹ. Nhiều ánh mắt rưng rưng. Tình đồng đội sống chết thật là thiêng liêng gắn bó. Trước đó thì biển nổi sóng đến cấp bảy, cấp tám. Sóng bạc đầu trắng xoa cả đại dương. Nhưng sau buổi lễ, tự nhưng trời nước yên bình, lòng trời đất nhẹ nhõm mà lòngngười cũng thanh hoát, yên lành.
Sau buổi lễ tưởng niệm, tàu HQ 996 chở Đoàn công tác về đất liền.Thế là chúng tôi lại tạm biệt Trường Sa, tạm biết biển Đông. Biết bao giờ gặp lại những chiến sỹ, những con người gan góc, dũng cảm những đồng đội một thời của tôi. Lòng tôi tràn dâng một nỗi niềm kính yêu và cảm phục vô cùng.
 Khi vòi vọi nhìn những con sóng màu chàm tím lướt nhanh qua mạn tàu, tôI bồi hồi  lại nhớ đến  bài hát “Tâm tình ngườithuỷ thủ”:  “Nhưng em ơi! Nếu có những chàng trai chưa từng vượt qua nhiều sóng gió. Nếu có những chàng trai chưa từng vượt qua nhiều thử thách gian lao. Có lẽ nào sánh với tình em!”
Trường Sa – Hà Nội tháng 4 – 2007
Đỗ Hoàng
(1) Bài được giải thưởng cuộc thi Bút ký Văn học Tạp chí Nhà văn năm 2007 - 2008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét